Hà Nam là mảnh đất hiếu học kết tinh ở nhiều nhân vật đỗ đạt, đỗ đại khoa, tức Tiến sĩ trong đó có 53 vị đỗ Tiến sĩ và 3 vị đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ), tính từ người đỗ đầu tiên năm 1429 - Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hiếu đến người đỗ cuối cùng vào năm 1910 là cụ Phó bảng Bùi Kỷ.
Vũ Văn Lý (1809 - 1879)
Vũ Văn Lý sinh năm Kỷ Tỵ (1809), mất năm Kỷ Mão (1879). Ông quê xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nội nay là thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân.
Ông là cha của Phó bảng Vũ Văn Báo và Cử nhân Vũ Văn Nghị. Thầy dạy của Tam Nguyên Nguyễn Khuyến và Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi. Đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1840).
Năm 33 tuổi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841). Làm quan đến chức Quốc Tử giám tế tửu. Sau cáo quan về quê dạy học.
Vũ Duyên (Vũ Văn Diên) (1830 - 1902)
Tên khai sinh của ông là Vũ Duyên, sinh năm Canh Dần (1830) quê làng Lạc Tràng, huyện Kim Bảng, nay là làng Lạc Tràng, xã Lam Hạ, huyện Duy Tiên.
Vũ Duyên thi đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Tý (1852) đời vua Tự Đức khi mới 20 tuổi và đã được ban mũ áo, chờ vinh quy. Nhưng trong triều lúc đó có kẻ nịnh thần và trong số sĩ tử có kẻ đố kỵ với ông, tâu với triều đình, nhà vua nghe đòi lại văn sách. Trong văn sách của ông lại có ý chủ trương đánh Pháp, không chịu giảng hòa nên không hợp ý triều đình. Có một giám khảo người Nghệ An lại đọc trọ trẹ câu văn sách của ông là “Cát tài hoàng khảo” thành ra “Cặt tai hoàng khảo” có nghĩa là “Cắt tai vua cha”. Vua cho là mạn thượng nên phạt, lột mũ áo Tiến sĩ, giáng xuống sĩ nhân.
Đến khoa Nhâm Tuất (1862) ông đổi tên là Vũ Văn Diên, đi thi Hương lại, trúng ngay Cử nhân, rồi được tuyển bổ chức Huấn đạo huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định; sau được cử thay Tri huyện. Ông không dám tiếp tục thi Hội, sợ lộ tung tích. Ông sống liêm khiết và thương dân. Làm quan hơn 3 năm thì hai năm liền huyện bị thiên tai, hết bão đến lụt, dân cơ cực đói rét, ông đã bỏ tiền nhà và vận động dân trong huyện “lá lành đùm lá rách” tổ chức cứu tế giúp dân phần nào đỡ đói khổ.
Tiếp đến, thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ, triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, lại nhân dịp cụ cố mất, ông xin từ quan, trở về quê hương cự tang rồi dạy học và nghiên cứu thuốc chữa bệnh.
Học trò của ông thành đạt khá nhiều, làm Huấn đạo, Tri huyện, rồi Án sát, Ngự sử, như ông Phó bảng Vũ Duy Tuân ở Lạc Tràng, cháu gọi ông bằng chú ruột v.v. Ông là bạn học với anh em Tiến sĩ Dương Khuê, Dương Lâm ở Vân Đình, Hà Đông.
Ông mất khoảng 1902, thọ 72 tuổi. Các môn sinh xa gần đã góp tiền tậu một mẫu đất để làm vườn và xây nhà thờ. Mặt trước nhà thờ có đắp nổi 3 chữ “Song Nhâm Đường ” tức là thờ cụ Song Nhâm (ông thi hai khoa Nhâm, khoa đầu Tiến sĩ, khoa sau Cử nhân).
Thầy đồ và học trò
Vũ Duy Tuân (1840 - 1915)
Vũ Duy Tuân sinh năm Canh Tý (1840). Ông quê ở làng Lạc Tràng, huyện Kim Bảng nay là xã Lạc Tràng, xã Lam Hạ, huyện Duy Tiên. Đỗ cử nhân năm Đinh Mão (1867), đỗ Phó bảng năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 21 (1868). Năm 29 tuổi được bổ làm quan Ngự sử, nên về sau người ta thường gọi ông là Ngự Lạc Tràng.
Tính ông quả cảm, cương trực, các quan triều thần đều kính phục, nể vì. Nhân một lần dâng sớ can vua Tự Đức đại ý không nên vì quá chăm sóc mẹ già mà quên việc nước đang cấp bách, nhà vua giận quá, châu phê vào bên câu này bốn chữ “Tiến sĩ bất đệ ”. Bốn chữ có ý nghĩa mỉa họ Vũ: Tiến sĩ cũng không đỗ được còn làm nên trò trống gì mà cứ hay chỉ trích! Ngự sử liền dâng sớ xin nghỉ. Sau khi từ giã triều đình, về quê dạy học, họ Vũ cho khắc 4 chữ “Tiến sĩ bất đệ” (trong văn sách, Vũ chủ chiến không hợp ý chủ hòa, nên chỉ được xếp Phó bảng) vào biển sơn son thiếp vàng, treo trên chỗ ngồi để tỏ ý: Ở lăng miếu hay giang hồ, lúc nào cũng nhớ lời vua quở, dù là quở phi lý!
Ông mất năm Ất Mão (1915), thọ 75 tuổi.
Vũ Văn Báo (1841 - ?)
Vũ Văn Báo quê ở Vĩnh Trục, huyện Nam Xương tỉnh Hà Nội, nay là thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân. Ông là con của Tiến sĩ Vũ Văn Lý.
Vũ Văn Báo đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867), đỗ Phó bảng khoa Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 21 (1868). Ông làm quan trải các chức Tổng đốc Định An, Tam Tuyên, làm Phó sứ sang Pháp.
Về quê, bị nghĩa quân chống Pháp ở Nam Định giết.
Vũ Duy Vĩ (1835 - ?)
Vũ Duy Vĩ sinh năm Ất Mùi (1835), không rõ năm mất. Ông quê xã Bài Nhiễm, huyện Duy Tiên, nay thuộc xã Bạch Thượng, huyện Duy Tiên.
Vũ Duy Vĩ đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý (1864), năm 35 tuổi đỗ Phó bảng khoa Kỷ Tỵ, niên hiệu Tự Đức thứ 22 (1869).
Ông làm quan Án sát Quảng Bình, sung Trường vụ Thừa Thiên. Khi về lỵ sở, không phục mệnh vua nên bị cách, sau phục chức Điển Tịch.
Vũ Xuân Kiên tổng hợp