Sử ghi chức tước thật nhiều, Mà dân Khả Mộ vẫn nghèo thôn quê, Giỏi trí sĩ, giỏi nghề khoa học, Chuyển thế thời khó nhọc chi đâu, Những người thời đại nhắc nhau, Sử vàng ghi chép mai sau sáng ngời.
Cụ VŨ HUY ở bên Tầu
Ở tỉnh Phúc Kiến, Thường Châu là nhà
Vốn nho gia lại là địa lý
Sang Việt Nam chú ý tầm long
Đường xa hiểm trở mặc lòng
Mọi miền rồi đến tỉnh Đông1 ngắm tìm
Một phiến đất như chìm như nổi
Trăm nhạn bay tụ hội hồi sào
Giữa đồng gò đất nổi cao
Địa danh Nam Sách huyệt giao toàn tài
Qua ngày một ngày hai ấn định
Đưa Tổ về chính huyệt táng treo
Rằng như sách dạy mang theo
Đất này mãi mãi phát nhiều công khanh
Ý tiên định dự hành đã đạt
Lại lo đường nối giáp sách nghiên
Bà Lưu2 chính thất ưu phiền
Lân la ông đến ngay miền làng quê
Thanh Lâm đó đi về đã hiểu
Nghe có nàng thiếu nữ thế gia
Mượn người mối lái dò la
Tâm đầu ý hợp ông bà kết duyên
Trong giấc mộng một đêm bà thấy
Dưới tán che ngũ sắc mây trời
Niềm vui hạnh phúc sáng ngời
Cùng ông bà mới ngỏ lời tâm giao
Ngắm nhìn vợ nao nao huyết tưởng
Định ngày lành chồng vợ hồi hương
Phúc Kiến thôn, Mã Châu Thường
Khoan thai chốn cũ học đường vui thay
Mừng tiên cảnh thoắt ngày thoắt tháng
Đón xuân sang mọi sự như lòng
Tháng Giêng ngày Tám (8) chờ mong
Bà sinh một đấng quan sang rõ ràng
Xem tướng mạo hiếm người xuất sắc
Con người này ắt chắc nổi danh
Thật là dòng giống trâm oanh
Ông bà mới đặt quý danh VŨ HỒN
Ba chấm thủy bộ khuôn bên phải3
Chữ quân khôn phải trái giống cha
Thoi đưa tháng lại ngày qua
Lớn lên đèn sách HỒN đà thông minh
ĐƯỜNG TRIỀU mở thi Đình thi Hội
Đỗ dần lên cho tới khôi khoa
Vua phong Lễ bộ vinh hoa
Sau phong Ngự sử chức đà cao siêu
Thời còn vua Đường triều đô hộ
Cao Hàn qua giữ bộ Giao châu
Đến khi hai gã về tàu
Vua phong VŨ mỗ Giao Châu thay Hàn
Về thôn, Mỗ vấn an tình phụ4
Vua phong Kinh lược sứ An Nam
Xin đem thân mẫu cùng sang
Hiếu Trung trọn vẹn lo toan mới là
Cha nghe vậy khen là chí hiếu
Khuyên quân đi, lo liệu giáo dân
Tạ từ lên ngựa rời chân
Cùng quân Sĩ Tắc5 mẫu thân một đoàn
Đường đi thì quan san muôn dặm
Nào núi cao, sông rộng, rừng xanh
Thì giờ thấm thoắt trôi nhanh
Quân đi đã đến kinh thành Long Biên
Dân kinh thành trống chiêng đón rước
Đến phủ Đường mở hội an dân
Hô hào giảng võ giảng văn
Khuyên dân khai khẩn muôn phần nông giang
Mười bảy (17) năm vui an chức vụ
Dân hòa bình vạn sự an ninh
Hàng năm thi Hội thi Đình
Công khanh hoa nở khuynh thành tốt tươi
Chốn kinh kỳ người buôn kẻ bán
Trên ngựa xe dưới bến thuyền bè
Thành đô gió mát bốn bề
Dân thôn phát triển trăm nghề làm ăn
Phận làm tớ khó khăn chẳng nản
Cũng chẳng lo an phận nghỉ ngơi
Nghĩ mình một chốn đôi nơi
Việc công hồ dễ những lời độc chê
Cung đường thềm ngọc phân li
Đội ơn phán đáp mấy khi sánh tày
Đã từng non nước bấy nay
Chữ Trung như nhất nọ này chi đâu
Đã pha sợi tuyết mái đầu
Những là chữ hiếu mai sau thế nào
Thuận lòng ấn tín vua trao
Chiếu hưu chí sĩ rời chào dương cơ
Tìm đường cơ vượt trùng mưa gió
Xem đất nào phát có công khanh
Đã từng đi khắp xứ Thanh
Phúc Yên, Đông Ngạn, Đông Anh đã nhiều
Đi đến đất Đông Triều cũng đẹp
Sông rộng sâu núi tiếp trùng trùng
Đất này phát ít anh hùng
Nên không đẹp ý đẹp lòng lại thôi
Liền sang sông qua đồi mươi dặm
Đến Kim Thành đất rộng phì nhiêu
Miền quê của cải có nhiều
Công khanh phát ít chẳng yêu đất này
Đi Thượng hồng đến ngay ấp Hạ
Trông Đống Hà ý đã ham mê
Đến nơi xem cảnh tứ bề
Đất này hào phú ít bề công khanh
Trông đông bắc mây thành vượng khí
Quay lại xem đẹp ý hữu tình
Đất này có đủ tứ linh
Oa kiềm nhũ đột công khanh hẳn nhiều
Ngũ mã thì đứng chầu phía trước
Hậu thất tinh soi được tứ bề
Tả long hữu hổ vững bền
Trống cờ võng lọng dàn thêm một hàng
Nghiên, bút, sách, bảng vàng sẵn đó
Nhật nguyệt phù kiên có trang quan
Bút thượng thư đứng một ban
Còn như hậu chẩm có dàn mũ cao
Con cháu sẵn lại sào tiến sĩ
Giáp muôn triều đạt chí nam nhi
Hoàng xà vùng vẫy bên qui
Ấn vàng để hộp nhạn thì qui hương
Voi ngựa buộc bên đường trực sẵn
Đợi khoa tràng ắt hẳn vinh qui
Ngựa sứ chờ đón sứ đi
Hoàn thành chiếu chỉ lại quy hồi triều
Ruộng bốn bề phì nhiêu thoải mái
Ở đất này vạn đại cơ gia
Sửa sang cắm đất dựng nhà
Quây quần cắm đất cùng là mẫu thân
Kiến phụ thân phong thư một bức6
Chữ vu gia yên sức trẻ già
Con xin ở lại nam gia
Phụng dưỡng mẹ già đến tuổi lâm chung
Xem thư khen vô cùng chí hiếu
Đáp thư khuyên lo liệu tề gia
Bắc Nam đâu cũng là nhà
Giữ nghề nghiên bút vốn nhà trâm oanh
Tiếp thư cha thấu tình phụ nghiệp
Đạo làm con kế tiếp năng thừa
Mở mang trường tự sớm trưa
Ruộng vườn xanh tốt nắng mưa thuận hòa
Đất hương ấp tên là KHẢ MỘ
Dựng đình chùa chọn chỗ phong quang
Mẫu thân khuya sớm đèn nhang
Câu kinh, câu kệ ngày càng thông minh
Làng quê vui thắm tình nặng nghĩa
Mở rộng dần về phía đông nam
Lại thêm những họ bạn quan
Đất lành chim đậu hân hoan một nhà
Giữ nguyên phép đạo gia tùy tục
Hương thôn ngày đông đúc văn minh
Ngày xuân mở hội thi Đình
Đầu hè hương khói chúng sinh cổng làng7
Trọn nghề nghiệp mở mang phong cảnh
Khâu nón và khuya sớm cửi canh
Vải nhiều đồng lúa biếc xanh
Nhà nhà vang tiếng học hành ngân nga
Làng xóm vui câu trù câu trống
Bản gia tư cảnh sống giáo dân
Phút đâu trận gió xoay vần
Mẫu thân sớm đã từ trần quy tiên
Linh cữu rước táng trên KIỆT ĐẶC
Giáp Chí Linh, Nam Sách hai miền8
Mộ phần táng đã được yên
Về nhà tang phục tam niên xong rồi
Lại tiếp tục với nghề giáo dục
Dạy vạn chài các lối thi thư
Khi chén rượu khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên
Vì con cháu xây nền tảng trước
Cho mai sau lắm tước quận công
Chiều hôm trông đám mây hồng
Ác tà sắp lặn non hồng phía tây
Bốn chín tuổi tóc mây đã bạc
Nhưng tinh thần chẳng khác mọi khi
Bỗng dưng nhọc mệt bất kỳ
Mùng Ba tháng Chạp9 biệt ly cõi trần
Lễ tống chung ba tuần cúng tế
Dân rước lên chỗ để sinh phần
Từ nay gọi đống Lăng thần
Phu nhân sau mất mộ phần táng bên
Hậu thẩm thì gối bên phía bắc
Còn trống cờ còn trực trước lăng
Về sau con cháu nghĩ rằng
Công ơn tiên tổ xem bằng núi cao
Đình An Thái đem vào chỗ ở
Sắc vua phong tiên tổ Thành Hoàng
Vì giặc ngũ đế lan tràn
Tống, Nguyên, Minh loạn dân tàn còn chi
Nên phả tích chẳng ghi chẳng chép
Đến thời Trần mới tiếp tục biên
Cho nên gia phả thất truyền
Bốn trăm năm loạn, phả trên mất rồi
Con cháu chạy khắp nơi thất lạc
Họ Vũ còn bậc cháu ở thôn
Bác là Vũ Vị không con
Cháu là Vũ Nạp vẫn còn văn chương
Trong thời Trần đăng truyền lập quyển
Tạm giao thi tân tuyển Ất khoa
Nghĩ rằng việc nước việc nhà
Nước rằng sử ký nhà gia phả truyền
Cụ Vũ Nạp liền biên chép phả
Hai con là Nghiêu Tá, Hán Bi
Năm đời rồi mới phân chi
Năm (5) trai đều đỗ chức thì đầu khoa
Họ Vũ thì nghiệp nho kinh sử
Họ Lê thì vẫn giữ văn chương
Trần, Lê tiến đạt khác thường
Cảnh Tuân10 trí lớn tìm đường diệt Minh
Cùng Bá Kỳ hy sinh tố giặc
“Vạn ngôn thư” giết giặc giúp dân
Giặc Minh biết rõ trăm phần
Truy tìm bắt được Cảnh Tuân về tầu
Ba (3) con vẫn theo hầu cha mãi
Đến Nam quan rồi mới trở về
Thái Diên chí hiếu trăm bề
Anh theo cha, nhị đệ về liệu lo
Đến Lam Sơn thăm dò tin tức
Lê Lợi người đứng bậc quân vương
Nghe anh giúp chúa quật cường
Thù nhà nợ nước đôi đường trả xong
Thiếu Đĩnh lại cầu phong đi sứ
Thăm nơi cha cầm giữ kim lao
Giữ gìn quân mệnh Nam triều
Chữ vàng trung hiếu Lê triều vua ban
Lê Đĩnh là trạng nguyên hay chữ
Một bữa ăn bát sứ ba mươi
Quang Bí hùng biện hơn người
Đi sứ Trung Quốc chẵn mười tám năm
Khi về đến đầu rồng bái yết
Việc sứ xong cờ tiết dâng lên
Vua liền phong chức ban khen
Tô quận công chức đứng lên anh tài
Ông Vũ Hữu đại tài toán giỏi
Làm “Lập thành toán pháp” thi thư
Vũ Phong tướng đoán sức thừa
Vật đô lực sĩ ngã thua sóng xoài
Vua Lê khen võ tài đặc biệt
Phong chức là Giao điệt trạng nguyên
Sứ Tầu lại đến Giang Biên
Bắt vua ta lại một phen đấu cờ
Thua ba ván phất cờ đánh chiếm
Thắng ba lần chẳng tiến quân sang
Triều đình thấy thế hoang mang
Các quan Mộ Trạch tiến chàng cờ cao
Vũ Huyến tâu đánh vào giờ Ngọ
Che lọng thời chỉ có một tên
Cấm người phù tá hai bên
Mưu cao trước đã lọng xuyên thủng rồi
Khi đánh cờ mặt trời chiếu thẳng
Theo ánh vàng Vua thắng cả ba
Cao cờ thoát nạn can qua
Vua phong Vũ Huyến thôn ta Trạng cờ
Rượu ngon nhất HHHHoàng Mơ đỏ chợ
Tiếng cao cờ Khả Mộ vang lên
Vũ Quỳnh môn sử học chuyên
Năm hai mốt tuổi đỗ liền đại khoa
Làm bộ sách nhãn là Thông giám
Cùng Lĩnh Nam các bộ sử ta
Dâng trình vua ngự xem qua
Triều đình khen ngợi văn đà còn lưu
Chi Thế khoa đồng triều tam đại
Duy Đoán tài đã xứ vô song
Vũ Văn Tính học tinh thông
Có tài viết đẹp nhất trong triều đình
Chữ thánh chúa ở đình lưu niệm
Tô son vàng chữ viết còn treo
Học như Công Đạo đình triều
Mười lăm tuổi đã bảng đầu cử nhân
Vũ Trác Oánh triệu quân khởi nghĩa
Đánh Lê triều giết kẻ tham quan
Công Lượng học giỏi trong làng
Thi Đình tiến sĩ bảng vàng trước anh
Huyện Đường An nổi danh tam hổ
Vốn cùng chi thi thố học hành
Đình phúc khắc tiếu Trạng Trình
Nước Nam nổi tiếng triều đình oai danh
Quốc sư sinh Đăng Long hay chữ
Văn tuyệt vời kinh sử cũng hay
Vũ Huy Đĩnh học giỏi thay
Đến năm Giáp Tuất đón ngày đại khoa
Tây Sơn sai sứ ra hiệu triệu
Mời Ông đi trừ tiễu giặc Thanh
Ba lần từ chối không thành
Sai con Vũ Tấn thay mình giúp dân
Vũ Tấn vâng, ân cần cha dặn
Phù Tây Sơn văn vẫn nổi danh
Luôn luôn đi sứ nhà Thanh
Những khi đấu trí vua Thanh khiếp lòng
Dư trận đánh Càn Long thất bại
Quân Long thua đại bại hồn siêu
Tây Sơn quân vẫn tiến đều
Đuổi Gia Long những vượt đèo qua sông
Ông nhìn thấy Gia Long thất trận
Biết người này số phận quân vương
Giặc tan hội tụ triều đường
Ông tâu lâm bệnh bất thường cáo hưu
Vua thấy ông công nhiều chiến thắng
Phong chức rồi trao tặng sắc phong
Tạ ơn lạy trước đầu rồng
Vó câu dong duổi tới phong cảnh nhà
Ngũ chi có ông là Phương Đẩu11
Văn hay mà thi đậu cử nhân
Chức phong Thông sứ cận thần
Phu nhân Quận Quế dự phần Vua phong
Bà quê Vạc12 người dòng họ Nhữ
Cha làm quan Thiên sự cao sang
Ông bà giàu nhất trong làng
Đến năm Đinh Sửu bà làm đình trong
Việc làm đình tốn công tốn của
Bà trọn lòng lời hứa trước dân
Đẹp thay một đấng hồng quần
Chữ trung chữ hiếu đẹp phần cao gia
Vũ Công Lịch cũng là phú thế
Quyên dân làm tiền tế đình ngoài13
Trang nghiêm di tích lâu dài
Kiểu ngoài chữ Quốc, trong thời chữ Công
Để thờ cúng nhớ công tiên tổ
Vừa trang nghiêm rực rỡ tòa đình
Khả Mộ dòng chữ khoa danh
Quan văn, tướng võ nổi danh đó là
Trang tể tướng vinh hoa tước vị
Năm quận công, tứ (4) sĩ cao quan
Tám ông Hoàng Giáp bảng vàng
Thượng thư các bộ một làng mười ông
Hai hai (22) tiến sĩ trong thôn đã
Bàn việc làng ở tại kinh đô
Hai ba (23) từ công chức to
Tư nông tư bạ chăm lo việc đồng
Nhiều ông đã hết lòng đi sứ
Việc quân vương trọn giữ cương thường
Ông đô đốc mở biên cương
Bình Chiêm, phạt Bắc chiến trường lập công
Đăng khoa chép những ông thi đỗ
Từ đại khoa đến đỗ cử nhân
Võ xuất chính tướng cầm quân
Toàn chi người đỗ cử nhân rõ ràng
Đăng khoa học của làng ghi rõ
Đỗ tú tài hàng loại không ghi
Khắc Huy lại khuyến khích thi
Đỗ cao thì phải sớm trưa dùi mài
Đăng Lê chuyên các chi các phái
Đất quê nhà xuất ngoại càng hay
Người làm quan, bậc làm thầy
Ở đâu vui đấy, lập ngay dân làng
Cũng Khoa Giáp bảng vàng chói lọi
Cũng thẩm bào đối chọi văn chương
Thôn nhà ở khắp bốn phương
Nào văn, nào võ các trường kém chi
Cha phải đi, phải ghi sổ sách
Đến lúc về Mộ Trạch thăm quê
Để mà biết rõ phái chi
Máu đào một giọt ta thì có nhau
Thăm tiên tổ công hầu lịch sử
Phong cảnh làng có đủ tứ (4) linh
Ngũ mã chầu ở trước đình
Còn như củng hậu thất tinh trống cờ
Nam Sách mộ bây giờ vẫn giữ
Xã Thanh Lâm ngôi mộ Đống Dờm
Đến nơi cùng đứng lại xem
Trăm con chim nhạn bay chen hồi sào
Trông hướng sông luồn vào cầu Phú14
Nước sông còn họ Vũ vinh quang
Thăm rồi thắp một tuần nhang
Cúi đầu mặc niệm nghiêm trang trước mồ
Công tiên tổ đời đời ghi nhớ
Tình máu đào muôn thuở từ đây
Anh em tâm sự dãi bày
Kẻ về Nam, Bắc, người rời xứ Đông
Mộ Trạch thôn tên làng vẫn đó
Cảnh người đông dòng họ vui quê
Nào là họ Vũ, họ Lê
Họ Nhữ, Nguyễn, Tạ mọi bề vui chung
Ơn tiên tổ chỉ đường dẫn lối
Con cháu đều vững bước tiến chung
Dù cho sóng gió bão bùng
Đất văn Khả Mộ vẫn trong hiếu đường
Xưa có luật ngũ thường khuôn phép
Lệ muôn nhà giữ đẹp muôn dân
Dù cho con tạo xoay vần
Lệ làng hiếu thảo, trung quân thói lề
Sử ca chép tay nghề có hạn
Lời thiên ngu chưa cạn ý văn
Việc xưa trọn lọc ghép vần
Người xưa chép lại thành văn lưu truyền
Giúp bạn đọc dịp liên tưởng tới
Những cuộc đời tiên tổ xa xưa
Mặc cho trời đất nắng mưa
Nghiệp gia văn học chẳng thua kém người
Nay xã hội thắm tươi màu mới
Đức tài xây xã hội góp phần
Mong rằng toàn thể nhân dân
Đạo thường luân lý chuyên cần dạy con
Dạy đạo đức thì còn đạo đức
Dạy văn chương nối mãi văn chương
Văn chương, đạo đức đôi đường
Đều là căn bản đôi đường chớ quên
Xưa các cụ có nề có nếp
Đón kỳ thi học hết thâu đêm
Không đèn phải đốt hương lên
Đình Triều, Công Đạo15 chớ quên gương Người
Lại gương sáng bao người quan lại
Trọn chữ trung nhất phái phù triều
Sử ghi chức tước thật nhiều
Mà dân Khả Mộ vẫn nghèo thôn quê
Giỏi trí sĩ, giỏi nghề khoa học
Chuyển thế thời khó nhọc chi đâu
Những người thời đại nhắc nhau
Sử vàng ghi chép mai sau sáng ngời./.