Trong khi văn nghiệp của họ Vũ phát triển rực rõ trên khắp nước qua nhiều thời đại, Vua biết mặt, Chúa biết tên, thì một chi thuộc của dòng họ Vũ Hồn thiên cư sang huyện Gia Lộc lại tạo ra một sự nghiệp mà không mấy ai trong chúng ta có thể đánh gía chính xác được vai trò và vị trí của nó trong lịch sử nước ta. Thật vậy, đó là một sự nghiệp "Phi Đế, Phi Bá". Tuy không quyền khuynh thiên hạ, nhưng chi họ Vũ này cũng đã nắm trong tay non một nửa cõi sơn hà, phụ truyền tử kế, song hành với Triều Mạc, và cũngbền bỉ không thua kém sự nghiệp của họ Trịnh bao nhiêu.
Hồi ấy quyền thần Trịnh Duy Sản giết Vua Lê Tương Dực để lập Quang Trị, con của Mạc Ý Vương và mới 6 tuổi, lên làm vua. Rồi anh của Trịnh Duy Sản là Trịnh Duy Đại lại bắt Quang Trị vào Tây Kinh và giết đi.
Triều đình khi ấy vắng ngôi vua, nên dân tình rối loạn. Nguyễn Hoàng Dụ, lúc đó đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản giết vua, bèn đem quân về đốt phá kinh thành. Trịnh Duy Sản đem người con của Cẩm Giang Vương tên là Ý, 14 tuổi, chạy về Tây Đô và lập lên làm vua, tức là Vua Lê Chiêu Tôn.
Đông Đô bỏ trống. Thừa cơ hội đó, Trần Cao đang làm loạn ở vùng Hải Dương, bề kéo quân về kinh thành và tự xưng làm vua.
Đình thần Nhà Lê là Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoàng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân cùng hội binh ra đánh Trần Cao, rồi sửa sang lại kinh thành. Khi tuần tiễu giặc ở vùng Lạng Nguyên, Trịnh Duy Sản vì khinh địch nên bị giặc giết. Sau khi giặc tan rã, Nguyễn Hoàng Dụ và Trịnh Tuykéo quân về, nhưng lại đóng quân ở ngoài thành và khởi sự đánh nhau. Triều đình can ngăn không được. Trịnh Duy Đại lại có ý mưu phản, nhưng âm mưu bị tiết lộ, và Duy Đại bị giết. Bên ngoài, Trần Chân bênh Trịnh Tuy, cùng đêm quân sang đánh Nguyễn Hoàng Dụ. Yếu thế, Nguyễn Hoàng Dụ rút về Thanh Hóa. Vua được tin Trần Chân mưu phản, bề cho triệu vào thành rối giết đi. Bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng Văn Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem quân ra đánh phá kinh thành, đòi giết bọn hoạn quan sàm tấu. Triều đình phải trao mấy cận thần cho chúng, nhưng chúng vẫn không bãi binh. Vua phải chạy sang vùng Gia Lâm lánh nạn và cho triệu Nguyễn Hoàng Dụ về bảo giá, nhưng Nguyễn Hoàng Dụ không ra. Vua phải gọi đến Mạc Đăng Dung, khi ấy đang ở quê nhà - làng Cổ Trai, huyện Bình Hà, trấn Hải Dương (sau đó đổi là huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An). Mạc Đăng Dung bề truyền hịch đi khắp nơi để tuyển mộ anh hùng, hào kiệt ra giúp nước.
Nhân dịp này, tại làng Ba Động, huyện Gia Phúc (nay là huyện Gia Lộc, Hải Dương) cùng trong trấn, có người tên là Vũ Văn Uyên cũng đứng lên chiêu mộ quân Cần Vương. Vũ Văn Uyên vũ dũng hơn người, nhiều mưu lược, luyện quân có phép tắc; nên đám quân tỳ hổ của ông dù chỉ có mấy ngàn người cũng đủ làm xiêu rừng, bạt núi.
Mạc Đăng Dung sai người mời ông đến tương hội, rồi cử ông làm tướng tiên phong, chọn ngày ra quân phò vua, giúp nước.
Cuối niên hiệu Quang Thiệu (1522), ông tới triều bái Vua và được Vua phong làm Phó Tướng. Mạc Đăng Dung tự cầm quân chống nhau với Trịnh Tuy, và sai ông đánh bọn Nguyễn Kính và Nguyễn Áng. Ông lập được nhiều công trận, nhưng bốn phương không thể một sớm, một chiều mà trừ ngay được giặc. Sau đó phía bên địch liên kết với nhau và lập Lê Đô lên làm vua; nhờ vậy thanh thế củ họ lại khá vững mạnh. Một lần nữa Vua phải vời Nguyễn Hoàng Dụ ra đánh giúp, nhưng Hoàng Dụ thua, nên dẫn quân về Thanh Hóa.
Sau quân của Mạc Đăng Dung và Vũ Văn Uyên đánh tan được cánh quân Trịnh Tuy, giết được Nguyễn Sư và Lê Đô, rồi lại cả phá cánh quân của Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng. Ba tên này phải xin về hàng, và Đăng Dung kết nạp họ làm bọn tâm phúc.
Ban thờ trong nhà thờ họ Vũ thôn Ba Đông, xã Đồng Quang, Gia Lộc, Hải Dương - quê hương của các Chúa Bầu
Các hậu duệ của các Chúa Bầu trước ban thờ họ Vũ thôn Ba Đông - quê hương các Chúa Bầu
Vũ Văn Uyên có công lớn được phong chức Đô Thống Sứ tự Đông Thống Binh Sứ, và tước Hầu.
Việc vừa yên, Mạc Đăng Dung cậy công chuyên quyền. Vũ Văn Uyên bèn tìm kế dời xa họ Mạc. Nhân đất Tuyên Quang có nhiều giặc cỏ nổi lên, ông bèn xin đi đánh dẹp, nhưng rồi ở lại đó và xây dựng một bờ cõi riêng của mình.
Tuyên Quang xưa là đất thuộc bộ Văn Lang. Đời hậu Lê gọi là Tuyên Hóa phủ. Đời Lê Uy Mục lại đổi tên là Minh Quang phủ (1509).
Đất Tuyên Hóa hay Minh Quang hồi ấy gồm các khu vực Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu ngày nay, và một phần đất mà ngày nay đã mất về Vân Nam. Không kể phần đất đã mất về Trung Hoa, diện tích khu này cộng chung là 59,947 km2, so với diện tích 115,800km2 của toàn khu vực Bắc Việt, từ Ninh Bình trở ra. Như vậy, phần đất đai thuôc họ Vũ còn to rộng hơn phần đất đai thuộc nhà Mạc. Nhưng dân số dưới quyền cai trị của họ Mạc có thể đông gấp 20 lần dân số dưới quyền cai trị của họ Vũ.
Tuy vậy, nếu có đánh nhau, vì đất Tuyên Hóa hiểm trở và lại rộng lớn quân Mạc không biết tìm đâu ra địch mà đánh; còn như đóng quân lại để thủ giữ, thì phần không hợp thủy thổ, phần khác lại bị tập kích bất thần, cho nên thường thì quân Mạc bị thua; vì thế hai nhà chống giữ nhau hơn 100 năm, không bên nào xâm phạm bờ cõi của bên kia được.
Trong khi họ Mạc chiếm ngôi nhà Lê để lập nên nhà Mạc, thì ở Tuyên Hưng, họ Vũ cũng xây dựng một biên cương tự chủ. Mới đầu, họ Mạc có gởi Sứ Thần đến phong cho Ông Vũ Văn Uyên chức Trấn Thủ, tước Quốc Công, nhưng ông không nhận. Từ đấy đôi bên trở thành thù nghịch, nhưng chưa đánh nhau ngay vì cả hai bên đều phải lo củng cố thế lực.
Khi Vũ Văn Uyên mất, quyền về tay người em là Vũ Văn Mật ( khoảng cuối đời Mạc Đăng Doanh qua đời Mạc Phúc Hải). Trước kia Vũ Văn Uyên chỉ mới lãnh của Nhà Lê có phần đất Tuyên Quang, nhưng đến đời Vũ Văn Mật bờ cõi được mở rộng thêm, lấn chiếm cả phần đất Hưng Hóa. Cả hai khu hợp lại gọi là đất Đại Đồng và họ Vũ đóng dinh tại thành Nghị Lang (Thành Nghị Lang về sau đã mất vào Vân Nam).
Khi nghe tin Vua Trang Tôn được Nguyễn Kim phù tá, khởi lên làm việc trung hưng ở Thanh Hóa, Vũ Văn Mật bèn sai người đến chỗ hành tại dâng lễ vật và sớ văn xin được vì nhà Lê trừ họ Mạc. Vua Lê bèn phong cho Vũ Văn Mật làm Tây An Vương, cho con cháu được tập tước, và văn thư của triều đình ban xuộng đễu gọi là Tây An Vương một cách trịnh trọng.
Vũ Văn Mật đem sắc phong ấy hiểu dụ các "đỗng". Các Đỗng Chúa ở các châu Trung Đăng, Lệ Toàn, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phù, Khiêm Châu, Lai Châu, Tuần Châu, Mai Sơn, và các Mãnh, trước kia còn lánh mặt, chưa phục, thì lúc này đều xin về quy thuận cả (một số trong các Châu này ngày nay đã mất về Trung Hoa). Danh tiếng Vũ Văn Mật khi ấy lẫy lừng, và chốn biên thùy được Nhà Thanh kiêng nể, còn họ Mạc thì ngày đêm lo tính việc tảo trừ.
Đã mấy lần Vua Mạc sai binh tướng đi đánh Tuyên Quang, chính Mạc Kính Điển cũng một lần thân chinh, nhưng đều bị thất bại. Lai gặp khi phải chống với nhà Lê ở miền Nam, nên nhà Mạc đành phải gác bỏ việc chinh chiến với họ Vũ ở miền Tây Bắc. Ngược lại, Tây An Vương cũng mấy lần đông chinh đánh Sơn Tây (nay là khu vực Phú Thọ, Vĩnh Yên, Sơn Tây). Quân nhà Mạc cố thủ, chỉ ra giao tranh khi nhận thấy quân bên ngoài tỏ dấu mệt mỏi. Do thế, cả hai bên đều không làm gì được nhau và đành đứng ở thế cầm cự, kéo dài cả hơn 100 năm; khi Nhà Lê trung hưng, cả đôi bên đều bị tiêu diệt.
Vũ Văn Mật mất, con là Vũ Công Kỷ tập tước Nhân Quốc Công (ngang đời Mạc Phúc Nguyên). Vũ Công Kỷ mất, con là Vũ Đức Cung tập tước Hòa Quốc Công (ngang đời Mạc Mậu Hợp). Vũ Đức Cung mất, con là Vũ Công Ứng lên thay, tập tước Thụy Quận Công ( ngang đời Mạc Mâu Hợp và Mạc Kính Cung). Vũ Công Ứng mất, con là Vũ Công Sực tập tước Tống Quận Công (ngang đời Mạc Kính Khoan). Vũ Công Sực bị kẻ bộ tướng là Ma Phúc Tường giết và cướp quyền (ngang đời Mạc Kính Vũ). Sau đó các bộ lạc lại nổi lên giết Ma Phúc Tường để trả lại quyền cho con Vũ Công Sực là Vũ Công Tuấn. Theo lệ thường, Công Tuấn lại sai người về Đông Đô triều cống và cầu phong.
Lúc này họ Trịnh đã diệt xong họ Mạc ở Cao Bằng, nên cũng không muốn trong nước còn một Chúa thứ hai. Họ Trịnh bèn triệu Vũ Công Tuấn về Kinh, phong cho làm Khoan Quận Vương, và giữ luôn ở đó. Sau đó bày mưu cho người rủ Công Tuấn đi Quảng Nam, rồi phao vu cho là tìm lối sang hàng nhà Thanh và giết đi. Chúa Trịnh còn vu cho Vũ Công Sực trước đã đem 3 động Phổ Viên, Ngưu Dương, Hồ Diệp trả cho Trung Quốc. Thật ra, những đất này đã do Thổ Mục Nùng Văn Chung đem dâng nhà Thanh vào Năm Thuận Trị thứ 17 (1660), đúng vào lúc Vũ Công Sực bị Ma Phúc Tường ám hại.
Như vậy, từ Vũ Văn Uyên đến Vũ Công Tuấn cộng là 7 đời, cai trị miền Tây Bắc nước ta được 134 năm, cũng ngang với thời gian họ họ Mạc cai trị miền Đông Bắc, từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Kính Vũ, gồm 8 đời, cộng chung là 133 năm. Chỉ tiếc rằng lúc đó, nhà Mạc xưng là Bắc triều, và lại có Nhà Lê là Nam triều, nên công nghiệp mở mang miền Tây Bắc của họ Vũ bị lu mờ, được ít người nhắc tới. Hơn nữa, có lẽ cũng vì họ Vũ đã xưng thần với nhà Lê, nên sử gia cũng không muốn lập thêm một triều đại nữa. Phương Đình Địa Dư Chí - đã có bản dịch - có ghi chép về họ Vũ trong phần Tuyên Quang; con cháu họ Vũ nên đọc.
TS Đặng Vũ Phương Nghi (Cộng Hòa Pháp)
www.hovuvovietnam.com
|