GS, TSKH Võ Quý sinh năm 1929 tại vùng đất giàu truyền thống hiếu học xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh là nhà giáo, nhà sinh học Việt Nam. Ông là người tiên phong và đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu bảo vệ môi trường. Ông là người đầu tiên của Châu Á được trao giải thưởng Hành tinh xanh của IUCN.
Võ Quý sinh tháng 12-1929 ở xã Yên Hồ - huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh, từ nhỏ đã ham mê tìm hiểu thiên nhiên. Năm 1946, ông thi vào Trường quốc học Huế và là một trong bốn học sinh Nghệ - Tĩnh đỗ khoá ấy. Nhưng ông mới vào học vài tháng thì Huế bị thực dân Pháp đánh chiếm nên ông phải về quê làm ruộng. Một năm sau, trường chuyển ra Hà Tĩnh, ông lại được đi học. Số phận đưa ông tới nghề giáo. Ông kể: "Lúc đầu tôi thích ngành y lắm, đã ba lần toan bỏ nghề "gõ đầu trẻ" nhưng không thành. Cực chẳng đã, nghĩ mình không thể thoát khỏi nghề "gõ đầu trẻ" thì phải làm thật tốt. Rồi trở nên yêu nghề thật sự. Thế mà lại hay".
Năm 1949, Võ Quý bắt đầu lên bục giảng ở Trường cấp 2 Liên Việt tại xã nhà (nay là Trường THCS Nguyễn Biểu). Năm 1950, ông được điều sang dạy ở Trường cấp 3 Phan Đình Phùng. Sau đó, ông lần lượt được chuyển tới Trường sư phạm trung cấp liên khu 4 tại Nghệ An, Trường cấp 3 Lam Sơn tại Thanh Hóa rồi Nha giáo dục phổ thông - Bộ giáo dục. Từ năm 1956, ông công tác ở Trường ĐH tổng hợp Hà Nội (nay là Trường ĐH quốc gia Hà Nội), đã kinh qua các cương vị giảng viên, trưởng phòng Đào tạo (1975 - 1980), chủ nhiệm Khoa sinh học (1980 - 1990)... Ông còn tham gia giảng dạy tại các trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Nông nghiệp I Hà Nội, Sư phạm Vinh... và được mời giảng tại các trường ĐH Wisconsin, Berkley (Mỹ), Oxford (Anh)... Ông là người đứng đầu hoặc người sáng lập và thành viên tích cực của nhiều tổ chức ở trong nước như Tổng hội các nhà sinh học, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường, Hội sinh thái học, Hội nạn nhân chất độc da cam - dioxin; là thành viên nhiều tổ chức quốc tế như Hội đồng vườn quốc gia và khu bảo tồn quốc tế (WCPA/IUCN), Hội đồng bảo vệ các loài nguy cấp quốc tế (SSC/IUCN). Năm 1985, ông sáng lập, làm giám đốc Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường trực thuộc Trường ĐH tổng hợp Hà Nội - trung tâm đầu tiên của Việt Nam nghiên cứu, đào tạo về môi trường. Từ 1995 tới nay, ông là chủ tịch danh dự của Trung tâm này. Ông đã góp phần quan trọng giúp Trung tâm phát triển vững mạnh, có đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo bài bản, có cộng tác viên ở hầu khắp các tỉnh thành, có quan hệ hợp tác với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế. Học trò của ông nhiều người đã thành danh, một số trở thành đồng nghiệp, thành cộng sự đắc lực của ông, ví dụ TS Võ Thanh Sơn, con trai thứ hai của ông, hiện là phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường trực thuộc Trường ĐH quốc gia Hà Nội.
GS Võ Quý trước hết là một nhà khoa học lớn về môi trường. Ngay từ năm 1971, khi chiến tranh còn ác liệt, ông đã tới làm việc ở khu vực sông Bến Hải, ở các cánh rừng Rú Lệnh - Quảng Bình xác xơ vì bom đạn và chất độc hoá học. Năm 1974, ông lại dẫn đầu một đoàn công tác vượt vĩ tuyến 17, lặn lội suốt 3 tháng dọc đường Trường Sơn, ghi lại cảnh hàng ngàn héc-ta rừng bị huỷ hoại tàn khốc vì chất độc hóa học. Sau chiến tranh, ông rất đau lòng trước cảnh người ta kéo nhau vào Tây Nguyên khai hoang, mau chóng huỷ hoại các cánh rừng nguyên sinh, thay vào đó là các nông trường cà-phê... Ông nhận ra bom đạn chiến tranh không tàn phá thiên nhiên nhanh bằng sự khai thác thiếu hiểu biết của con người, cần phải kịp thời giúp mọi người nhận thức mối nguy ấy. Thời đó, làm việc này không hề dễ dàng. Có cán bộ cao cấp đã gọi ông là kẻ... phá hoại vì ông ngăn cản việc phá rừng, làm kinh tế song ông vẫn dũng cảm khẳng định nước ta đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng sinh thái trầm trọng. Dựa trên những nhân tố ảnh hưởng tới môi trường, ông cảnh báo nếu không có biện pháp hạn chế, 20 năm nữa nước ta sẽ không còn rừng tự nhiên. Ông mạnh dạn trình bày các bức xúc, đề xuất của mình về vấn đề môi trường với Tổng bí thư Lê Duẩn và được Tổng bí thư chia sẻ, đồng ý. Cuốn sách trình bày ý tưởng về tài nguyên, môi trường của ông được đồng nghiệp trong và ngoài nước đánh giá cao, được Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên quốc tế (IUCN) dịch ra tiếng Anh và coi như là cuốn sách mẫu mực về môi trường. Ông luôn luôn trăn trở với câu hỏi: "Phải làm gì để không chỉ gìn giữ mà còn phát huy những điều kiện tốt đẹp của môi trường, đem lại nguồn lợi cho đất nước mình", là đồng sáng lập, làm phó chủ nhiệm rồi chủ nhiệm hai chương trình quốc gia về môi trường từ năm 1981 đến năm 1990, đã có đóng góp quan trọng vào việc đề xuất các chính sách phát triển bền vững, là người biên tập và đồng tác giả bản thảo đầu tiên của chiến lược bảo vệ môi trường và luật bảo vệ môi trường, là dịch giả chính của 3 cuốn sách về môi trường.
Năm 1994, khi thuyết trình tại hội nghị chiến lược toàn cầu về môi trường ở Canada, GS Võ Quý đã làm cả hội trường kinh ngạc trước quan điểm "bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng", muốn giữ rừng thì phải hợp tác với dân, biến mỗi người dân thành một kiểm lâm viên. Theo ông: "Dân thiếu ăn thì giúp họ vay vốn để làm kinh tế, giúp học nghề tạo việc, bày cho họ cách kết hợp trồng rừng, bảo vệ động vật hoang dã với nuôi cá, tôm, rùa, ong... để lấy lại cân bằng sinh thái. Chỉ đơn giản vậy thôi". Ông đã đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa người dân - nhất là dân nghèo - với tài nguyên thiên nhiên để tìm ra biện pháp hữu hiệu góp phần xoá đói giảm nghèo, giúp người dân ở vùng đệm của các khu bảo tồn phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, chẳng những không phá rừng mà còn tích cực bảo vệ rừng. Ông đã chứng minh điều đó trên mảnh đất Hà Tĩnh, quê hương ông. Ông đã xắn quần, lội ruộng, tư vấn cho người dân tỉnh Phú Thọ cách làm thủy lợi, trồng rừng, tạo nên một mô hình sinh thái điển hình về tái sử dụng vùng đất suy thoái. Chính vì vậy mà năm 1989, ông được UBND tỉnh Phú Thọ trao tặng Huy chương Hùng Vương - phần thưởng cao quý nhất dành cho người có công lớn với tỉnh. Sau đó, mô hình trên đã được triển khai ở nhiều nơi trên cả nước: Sân chim (Đồng Tháp), khu bảo vệ động vật hoang dã Kỳ Anh (Hà Tĩnh), Xuân Thủy (Nam Định), An Giang, Kiên Giang…Ông còn dành nhiều tâm sức để nghiên cứu đa dạng sinh học, các loài bị đe doạ tuyệt chủng, thiết lập và quản lí các khu bảo tồn, giúp đỡ các cộng đồng địa phương sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên để phát triển bền vững. Với vai trò cố vấn, ông đã góp phần rất quan trọng vào thành công của dự án xóa đói giảm nghèo cho nhân dân 137 xã thuộc 9 huyện ở tỉnh Hà Tĩnh do Ngân quỹ quốc tế về Phát triển nông nghiệp (IFAD) tài trợ (dự án đầu tiên của Liên hiệp quốc thực hiện tại Việt Nam mà hầu như không có chuyên gia nước ngoài tham gia). Không thụ động chờ rừng tự hồi sinh, ông cùng đồng nghiệp đề xuất giải pháp trồng rừng và được nhiều địa phương hưởng ứng...
GS Võ Quý có thể ngồi lặng hàng giờ để ghi lại tiếng chim
GS Võ Quý là nhà điểu học hàng đầu của Việt Nam. Hồi nhỏ, ông rất thích nuôi chim. Bây giờ, ở tuổi trên 80, ông vẫn có thể ngồi lặng hàng giờ để ghi lại tiếng chim. Khi mới ngoài 30 tuổi, ông đã phát hiện con "gà lừng" ở vùng Kẻ Gỗ - huyện Kỳ Anh - tỉnh Hà Tĩnh thật ra là một loài trĩ mà giới khoa học còn chưa biết song lúc ấy, phát hiện này chưa được thế giới công nhận. Ông đã kiên trì nghiên cứu, tìm tài liệu chứng minh. 20 năm sau, qua nhiều lần kiểm chứng, Hội đồng bảo vệ chim quốc tế (ICBP) mới công nhận phát hiện của ông là đúng và đặt tên cho loài trĩ lam này là "Vo Quy pheasant" (trĩ Võ Quý). Hiện "Vo Quy pheasant" vẫn là loài trĩ cuối cùng được biết đến trên thế giới.
GS Võ Quý đã cùng đồng nghiệp, học trò "kiểm kê" tỉ mỉ hơn 1.000 loài và phân loài chim ở nước ta, là tác giả 14 cuốn sách về chim. Nhà riêng và phòng làm việc của ông treo nhiều bức tranh ảnh về các loài chim quý. Khi được hỏi vì sao không nghiên cứu loài khác, giống khác mà chỉ tập trung nghiên cứu loài chim, ông cười đáp: "Tôi có thói quen quan sát chim từ lúc 5-6 tuổi nên biết tất cả các loài chim của quê mình, biết thói quen của từng loài như thức dậy lúc mấy giờ, bay về tổ lúc nào, ăn quả cây gì, sinh sản ra sao... Khi lên đại học, tôi quyết định đi theo con đường làm khoa học và các loài chim trở thành đối tượng nghiên cứu của tôi".
Làm phim cũng là một thú vui của GS Võ Quý. Thú vui này đến với ông rất tình cờ. Từ thập kỉ 70 của thế kỉ trước, trong các huyến đi thực tế để khảo sát, nghiên cứu tác hại của chất độc màu da cam, ông đã quay nhiều phim, chụp nhiều ảnh để lấy tư liệu. Ông nhận thấy máy ảnh, máy quay phim là thứ không thể thiếu trong công việc của mình. Khi ông đến với thiên nhiên, chúng trở thành vật bất li thân. Chuyến đi nào, ông cũng say sưa quay phim, chụp ảnh, cặm cụi ghi chép về những điều mắt thấy, tai nghe. Ngay sau ngày đất nước thống nhất, ông ra Côn Đảo, chỉ định quay phim để lấy tư liệu song khi về, xem lại, ông nảy ra ý định dựng thành phim. Với sự cộng tác của của bạn bè, lại được vợ ông, bà Lê Thanh viết lời bình, bộ phim "Côn Đảo, viên ngọc quý của Tổ quốc ta" đã ra đời. Một người bạn ông làm truyền hình tình cờ xem được, thấy hay nên xin về để phát. Khán giả truyền hình đánh giá cao bộ phim này, đã đề nghị đài phát lại mấy lần. Sau này, ông còn làm cố vấn khoa học cho hãng phim ACACIA (Anh) thực hiện bộ phim "Việt Nam sau khói lửa chiến tranh" đoạt giải nhì Liên hoan phim Canada năm 1989, giải phim truyền hình thời sự hay nhất Liên hoan phim New York năm 1990; cộng tác, giúp đỡ hãng BBC (Anh) làm bộ phim "Việt Nam - một đất nước, không phải chiến tranh". Khán giả truyền hình Việt Nam càng gần gũi với ông hơn sau khi xem hơn 200 chương trình KCT phát trên làn sóng VTV2, trong đó ông trực tiếp dẫn chuyên mục "Đến với thiên nhiên". Những ý tưởng khoa học mới mẻ, nhiều khi còn độc đáo và lớn lao được ông trình bày, giới thiệu chẳng những rất dễ hiểu mà còn có phần dí dỏm nữa. Ông bảo: "Phải làm cho người ta nhớ mà lại không nhàm. Lúc thế này, lúc thế kia nhưng cũng chỉ xoáy vào một vấn đề lớn là tại sao phải bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên".
Do có những cống hiến to lớn như trên mà GS Võ Quý đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng ba, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương lao động hạng ba, danh hiệu Nhà giáo ưu tú... Ngoài ra, ông còn được tặng thưởng Huy chương vàng của Quỹ bảo vệ thiên nhiên quốc tế (WWF), Huy chương John Philipps của Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên quốc tế (IUCN), giải thưởng hạng nhất về bảo vệ môi trường sinh thái của CHLB Đức, Bằng danh dự Global 500 của Liên hiệp quốc, giải thưởng Pew Scholars của Trường ĐH Michigan (Mỹ)... Đặc biệt, năm 2003, Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên quốc tế (IUCN) đã tặng ông giải thưởng Hành tinh xanh - giải thưởng lớn nhất thế giới về môi trường, được coi tương đương giải Nobel - vì đã có các giải pháp cải tạo môi trường thế giới và dự báo về sự phát triển môi trường trong tương lai. Ông là người Việt Nam đầu tiên, người châu Á thứ hai được tặng giải thưởng cao quý này.
Tiền các giải thưởng, GS Võ Quỹ dùng hết vào việc bảo vệ tài nguyên môi trường, xoá đói giảm nghèo cho nông dân: 150 ngàn đô-la Mỹ của giải thưởng Pew Scholars được dùng để nghiên cứu bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở Hà Tĩnh (đến giờ, người dân 7 xã quanh hồ Kẻ Gỗ thuộc hai huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh vẫn nhắc tới "vườn cam ông Quý" với tất cả lòng yêu mến và biết ơn); 50 triệu yên Nhật Bản (tương đương 6 tỉ đồng Việt Nam) của giải thưởng Hành tinh xanh được dùng để mở các lớp tập huấn về môi trường cho cán bộ các địa phương... Ông tâm sự: "Đây là việc của Nhà nước, nhưng Nhà nước chưa thể làm hết được. Tôi muốn đóng góp vào việc đó một cách hữu ích".
Ở tuổi trên 80, điều GS Võ Quý mong muốn nhất là có sức khoẻ để tiếp tục làm những công việc mà ông yêu thích. Trước mắt ông, chúng vẫn còn bề bộn. Ông đúng là một tấm gương sáng về việc vượt lên tất cả những khó khăn, trở ngại, tự nguyện dấn thân cho khoa học để suốt đời phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
BBT www.hovuvovietnam.com
|