Các nhà ngoại cảm có khả năng thực sự tìm được mộ và tìm chính xác chiếm khoảng 60%. Có nhà ngoại cảm còn tìm chính xác đến 81%. Tuy nhiên, việc lý giải hiện tượng kỳ lạ này dường như vẫn là một chân trời rộng mở vô biên, không bờ bến…Hiện tượng các nhà ngoại cảm có khả năng tìm mộ là rất đặc biệt, kỳ dị, thậm chí khả năng cũng như con người họ dường như đã bị bao phủ bởi màn sương huyền bí.
Ảnh: Nhà khoa học Vũ Thế Khanh tại một buổi hội thảo
Người đời nhìn vào họ như nhìn vào vị Thánh, Đức Phật để rồi gọi họ là “cậu”, là “cô” rất thành kính và coi họ như “người Trời” chứ không phải người thường. Đó cũng là lẽ thường của cuộc sống, bởi vì, cho đến hiện nay, các nhà khoa học trên thế giới cũng như trong nước vẫn chưa có được những lời giải thực sự thuyết phục được số đông công chúng.
Khả năng ngoại cảm đã được các nước trên thế giới nghiên cứu từ cả thế kỷ nay. Nhiều nước còn lập cả viện nghiên cứu để sử dụng khả năng của các nhà ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực khác nhau như thiên văn, dự báo, khám phá tội phạm, thậm chí cả trong lĩnh vực quân sự…
Các nhà khoa học ở nước ta đã bắt đầu nghiên cứu các hiện tượng đặc biệt của con người, tự nhiên từ khoảng 15 năm nay. Đi đầu trong lĩnh vực này phải kể đến bộ tứ cơ quan gồm Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống, Viện Khoa học Hình sự, Bộ Công an và Bộ môn Cận tâm lý của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.
Các cơ quan này đã tập hợp được đông đảo nhà khoa học tài ba, ham mê khám phá những hiện tượng kỳ lạ, khả năng đặc biệt nhằm khai thác để phục vụ đất nước. Mặc dù đã hoạt động được 15 năm, triển khai cả ngàn đề tài khoa học, song đối với vấn đề ngoại cảm sâu rộng vô biên, đây cũng mới chỉ là bước nghiên cứu đầu tiên, nhằm đánh giá đúng sai, thật giả mà thôi.
Hầu hết các nhà ngoại cảm có khả năng thật sự đã được phát hiện nhờ các cơ quan trên đây, những trường hợp bịp bợm, ảo tưởng (số này đến cả ngàn) cũng bị loại bỏ nhờ các đề tài nghiên cứu rất cụ thể, chi tiết. Kết quả thể hiện khả năng của các nhà ngoại cảm đã được đánh giá bằng những số liệu khoa học chính xác và các nhà khoa học ở các trung tâm này đều khẳng định hiện tượng tìm mộ bằng ngoại cảm là có thật.
Con số tìm được mộ và tìm chính xác chiếm khoảng 60%. Có nhà ngoại cảm còn tìm chính xác đến 81%. Tuy nhiên, việc lý giải hiện tượng kỳ lạ này dường như vẫn là một chân trời rộng mở vô biên mà các nhà khoa học mới chỉ chập chững bước chân vào mà thôi.
Trong số cả trăm nhà khoa học miệt mài theo chân các nhà ngoại cảm lên rừng, xuống biển tìm hài cốt liệt sĩ, mới chỉ có vài nhà khoa học lên tiếng đưa ra lời lý giải cho hiện tượng này.
Một trong số những nhà khoa học nghiên cứu về các khả năng đặc biệt và khả năng tìm hài cốt, là nhà khoa học Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng. Ông rất tích cực đi tìm hiểu bản chất của hiện tượng và ứng dụng nó vào đời sống cộng đồng.
Theo ông, việc giải thích hiện tượng này không phải một sớm một chiều. Ông đã trình bày công trình nghiên cứu khảo nghiệm ở một số hội thảo và nhận được ủng hộ của nhiều nhà khoa học.
Hội đồng khoa học Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng chủ trương nghiên cứu hiện tượng tìm mộ bằng ngoại cảm từ việc khám phá bản thể, tiềm thức ẩn giấu trong con người.
Tiềm thức nhiều khi được thể hiện thông qua việc “nối dài các giác quan”, trong đó có giác quan thứ 6, ẩn chứa những khả năng vô biên. Ở các loài thú, loại giác quan này vô cùng nhạy bén và thể hiện rất rõ.
Bản năng con người thời kỳ sơ khai cũng tương tự bản năng của động vật, nhưng được tạo hóa đặt trên một bình diện cao hơn. Trước những sự kiện xảy ra xung quanh, con người đã nhờ đến sự chỉ dẫn của trực giác trước khi hành động.
Bản năng cộng với sự lao động đã phát triển tư duy, mang lại cho con người trí thông minh và trí nhớ tạo nên sự hiểu biết. Tác dụng vô thức của bản năng được gọi là “tiềm thức” và nó có ý nghĩa khác với bản năng thú tính.
Các nhà ngoại cảm cũng như những người có khả năng đặc biệt thường khai thác tiềm thức đưa hoạt động của bộ não về dạng tiềm thức rồi sử dụng ý nghĩ để chất vấn tiềm thức cá nhân của mình. Khi đó, tiềm thức sẽ đưa ra câu trả lời và nhà ngoại cảm nói và hành động theo sự hướng dẫn của tiềm thức. Khi hoạt động trí não ở thể tiềm thức, cơ thể sẽ vô cùng nhạy cảm với các hiện tượng, sự vật xung quanh và có thể cảm thụ, giải mã hoàn hảo những gì tác động lên họ.
Các nhà khoa học trên thế giới đã mất nhiều năm trời để nghiên cứu khả năng vô biên của bản năng, tiềm thức của con người. Họ cho rằng, khi tiềm thức hoạt động, tiềm thức sẽ sử dụng “con mắt thứ ba”. Ngày xưa, khi con người thường xuyên sử dụng tiềm thức thì “con mắt thứ ba” rất phát triển, nó nằm ngay trên trán.
Tiến sĩ Pravdivtsev, người Nga, đã bỏ gần như cả cuộc đời để nghiên cứu về “con mắt thứ ba” và ông khẳng định rằng, bằng nghiên cứu về phôi thai hiện đại, có thể tìm thấy “con mắt thứ ba” ở tháng thứ hai của phôi thai, nhưng con mắt này sẽ dần mất đi khi thai nhi tiếp tục lớn và chỉ còn là tuyến yên trước tiểu não khi sinh ra mà thôi.
“Con mắt thứ ba” đó chính là tuyến epiphysis (tuyến quả thông), một bộ phận nhỏ cỡ hạt đậu, có hình dạng quả lê và màu đỏ nâu, nằm ngay trước tiểu não. Theo nhận định của các nhà khoa học, trong quá khứ, bộ phận này có thể to bằng hạt nhãn.
Con mắt này có rất nhiều tác dụng đặc biệt. Nó như một thấu kính hội tụ truyền đi tối đa thông tin mà nó nhận được, giúp con người giám sát xung quanh một cách toàn diện. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy một quy luật khá thú vị, đó là những người có khả năng thông tin đặc biệt, phần xương trên chóp mỏng đến mức chỉ còn như một lớp da.
Phải chăng, epiphysis có liên quan đến thị giác và những thông tin đặc biệt của con người? Có thể chính “con mắt thứ ba” là cơ quan giúp một số người có được những khả năng đặc biệt như tiên tri hay thần giao cách cảm…
Theo các nhà yoga, các thiền sư lỗi lạc, ai cũng có “con mắt thứ ba”, vấn đề là có biết “mở” nó ra hay không.
“Con mắt thứ ba” của một số nhà yoga có tác dụng như những tia X-quang, đi xuyên qua các bức tường, nhìn thấy vật đằng sau, hoặc phát hiện được kho báu dưới lòng đất. Họ còn có thể quan sát được các sự kiện diễn ra ở bất cứ thời gian nào và bất cứ ở đâu trên trái đất.
Ở Ấn Độ, những người có khả năng như vậy được gọi là Trikalazna, có nghĩa là người biết được cả quá khứ, hiện tại, tương lai. Ở châu Âu người ta gọi là nhà chiêm tinh học hay nhà tư tế.
Trong các bài giảng về yoga, con người có thể luyện tập để khai mở “con mắt thứ ba”. Việc khai mở được ở mức nào thì nhà yoga có khả năng ở mức đó. Nếu nhà yoga vượt qua được mức thứ nhất thì có thể nhìn thấy những vòng hào quang phát tiết từ đồ vật, con người hoặc cơ thể mình.
Các nhà khoa học khẳng định, dựa vào cấu trúc của bộ não, vật báu trời cho, bất cứ người nào cũng có thể đạt được ba mức độ trên bằng cách luyện tập kiên trì, bài bản.
Mức độ cao nhất, luyện đến độ tinh thông thì hiếm người làm được. Để đạt tới ngưỡng này, con người cần phải cống hiến toàn bộ cho sự nghiệp hoàn thiện tinh thần. Khi đã đạt đến mức độ tuyệt đỉnh của giai đoạn thứ tư, con người sẽ không cần học ai và không cần học cái gì nữa. Khả năng tinh thần sẽ cho phép con người biết và nhìn thấy tất cả những gì mong muốn, không phụ thuộc vào thời gian và không gian.
Các bài học yoga có mục đích khai mở những khả năng bí ẩn của bộ não. Các thiền sư tu hành khổ hạnh cũng mang khát vọng như vậy. Khi đạt đến độ thâm sâu, nhà tu hành không cần học gì nữa mà vẫn biết mọi sự trên đời. Khi đó, nhà tu hành tiếp thu trí tuệ từ vũ trụ.
Tuy nhiên, trí tuệ vũ trụ là vô biên, vì thế, sự hiểu biết của các nhà tu hành dù cao siêu đến đâu thì họ cũng chỉ dám so sánh với chiếc lá trong bàn tay mà thôi, còn những gì không biết là cả rừng lá.
Theo nhà khoa học Vũ Thế Khanh, “con mắt thứ ba” tiềm ẩn trong não người dù có chức năng như các nhà khoa học thế giới nghiên cứu đi chăng nữa thì nó cũng chỉ có tác dụng một phần trong khả năng kỳ diệu không lường được của các nhà ngoại cảm.
Để hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về vấn đề này, ông Khanh và các GS, TS, các nhà khoa học hàng đầu của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng đã nghiên cứu sự tác động qua lại giữa vật thể và ý thức thể.
Theo ông Khanh, giữa vật thể và ý thức thể có 4 loại tác động: vật thể tác động vật thể; vật thể tác động ý thức thể làm thay đổi ý thức thể; ý thức thể tác động làm thay đổi vật thể (làm di chuyển, biến dạng cấu trúc vật thể bằng ý nghĩa, tác động cách không, như trường hợp làm cong thìa, nĩa bằng ý nghĩ của một số nhà ngoại cảm trên thế giới) và cuối cùng là ý thức thể tác động với ý thức thể (hay còn gọi là tâm giao tâm, tức nói chuyện bằng ý nghĩ, ngoại cảm).
Các nhà khoa học ở Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng cho rằng, khoa học hiện đại đã chưa thấy hết hiệu quả phần ý thức thể tác động làm thay đổi vật thể và coi hiện tượng tâm giao tâm là ngoài khoa học, là thần bí.
Theo các nhà khoa học ở Liên hiệp, việc ý thức thể có thể tác động, điều khiển, làm biến dạng, thay đổi được vật thể mạnh hay yếu là phụ thuộc vào khả năng sẵn có trong mỗi con người kết hợp với sự luyện tập kiên trì để phát huy sức mạnh của ý thức thể.
Ông Khanh và các nhà nghiên cứu của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng đưa ra một nhận định khá đặc biệt, hơi khác với triết học duy vật hiện thời: ý thức thể cũng là một dạng vật chất!
Ông Khanh giải thích rằng, thế giới tự nhiên tác động vào con người bằng ánh sáng, âm thanh, mùi, vị, xúc qua các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, da. Sự tác động của tự nhiên đến các giác quan sẽ sinh ra thức (nhận thức) như: thích, không thích, hợp, không hợp….
Cũng từ đây mới sinh ra hỉ, nộ, ái, ố… và tạo ra phản ứng cho cơ thể. Sự phản ứng đồng thời sẽ sinh ra lực cộng hưởng rồi tạo ra tác động lực. Tác động lực sẽ phát ra không gian (gọi là năng lượng sinh học) mạnh hoặc yếu. Hiện nay, với máy móc hiện đại như điện tâm đồ, điện não đồ đã đo được năng lượng sinh học của con người.
Chính năng lượng sinh học tiềm ẩn sinh ra điện trường, từ trường mà thường gọi là trường sinh học. Trường sinh học sẽ tạo ra hiện tượng tâm giao tâm, gọi là “truyền âm nhập mật” hay “nghĩ ngữ truyền thanh”, tức là có thể trò chuyện, hiểu được tâm tư của nhau bằng ý nghĩ. Cũng theo lý giải của ông Khanh, dù con người mất đi, song trường sinh học sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Qua lý giải này thì một số nhà nghiên cứu về tiềm năng con người đã khẳng định ý thức thể, tâm thức cũng là một dạng vật chất, nhưng là vật chất đặc biệt, có sự chuyển đổi biến ảo khôn lường. Chẳng hạn, chị Ngô Thị Tuyển có thể vác một lúc hai hòm đạn chạy băng băng trong cảnh mưa bom bão đạn.
Lúc bình thường chị không thể vác được như vậy, song trong hoàn cảnh đó ý thức thể đã biến thành năng lượng và chuyển năng lượng vào các cơ bắp, làm cho cơ bắp nhỏ bé, mềm yếu thường ngày đột nhiên có một sức mạnh phi thường. Qua đây, có thể thấy ý thức thể là một dạng vật chất rất mạnh và trong tương lai có thể lượng hóa được bằng khoa học, máy móc hiện đại. Vì ý thức thể là một dạng vật chất đặc biệt nên nó có thể tác động làm biến đổi vật thể (?!).
Chính ý thức thể, tiềm thức đã sinh ra điện trường, từ trường và trường sinh học. Theo các nhà khoa học thì trường sinh học phát sinh từ cơ thể người cũng là một dạng vật chất và nó tồn tại vĩnh viễn, do đó, dù con người mất đi thì cũng không ảnh hưởng gì đến trường sinh học.
Trường sinh học không những có thể chu du đến khắp nơi trên thế giới mà có thể vươn ra ngoài vũ trụ. Trường sinh học mã hóa và lưu giữ toàn bộ thông tin mà bộ não con người thu nhận được. Những gì chúng ta ghi nhớ được chỉ nằm trên bộ phận nhỏ của bộ não, nhưng những gì tác động đến chúng ta thì hệ tiềm thức chụp lại và lưu giữ như ổ cứng của máy tính hoặc được mã hóa rồi được lưu giữ ở trường sinh học.
Việc các nhà ngoại cảm “nói chuyện” được với linh hồn thực tế là do tiềm thức của nhà ngoại cảm dịch được những thông tin mã hóa mà trường sinh học mang theo, như chiếc đài hay chiếc tivi giải mã được tần số sóng vậy. Cũng có thể nhà ngoại cảm tưởng trên đời có linh hồn thật, bởi không phải lý trí nhà ngoại cảm “nói chuyện” với “linh hồn” mà là tiềm thức “nói chuyện” (thực ra là tiềm thức khai thác thông tin từ trường sinh học) rồi chỉ đạo cho lý trí.
Những câu hỏi của nhà ngoại cảm với linh hồn để xin sự chỉ dẫn chẳng qua là sự chất vấn của ý thức với tiềm thức. Việc nhà ngoại cảm biết những thông tin, những sự kiện xảy ra trong đời của người khác là bởi vì tiềm thức siêu đẳng của nhà ngoại cảm đọc được cả ý nghĩ và tiềm thức của người khác, chứ không phải do linh hồn người thân kể lại.
Cũng có thể tiềm thức của nhà ngoại cảm như một chiếc máy phân tích hình ảnh siêu hiện đại. Mỗi khi ý thức yêu cầu, tiềm thức lập tức giải mã hình ảnh từ sóng trường sinh học. Hình ảnh mà nhà ngoại cảm nhìn thấy là linh hồn có thể chỉ là hình ảnh giải mã của tiềm thức, song hình ảnh đó là đa chiều (chứ không phải hình ảnh 3D hay 4D thông thường), nên nhà ngoại cảm cũng tưởng rằng hình ảnh trước mắt là linh hồn của một con người thực sự.
Đây chính là hệ tương tác giữa ý thức thể và ý thức thể. Với tương tác này, nhà ngoại cảm, những thiền sư lỗi lạc có thể nói chuyện được với nhau bằng ý nghĩ. Họ có thể hiểu, đọc ý nghĩ của người thường, nhưng người thường thì không đọc được ý nghĩ của họ, nên người thường cho họ là thần thông quảng đại. Khi nhà ngoại cảm nói ra vài sự kiện đúng thì người đối diện đã nghĩ họ là “con Trời, con Phật” rồi.
Với khả năng lưu giữ thông tin, các nhà khoa học khẳng định, trường sinh học hay ý thức thể cũng là một dạng vật chất, nhưng là siêu vật chất. Loại vật chất đặc biệt này không phụ thuộc sự giới hạn của không gian, thời gian.
ANTG
|