HBH :
Dạ con/cháu/em xin phép tìm nhánh Võ Hy của cụ Võ Liêm ở làng Thần Phù Huế
ạ. Xin cám ơn
vũ đình diện :
tổ tiên tôi tên là vũ chính trực chạy từ quận thái nguyên vào nghệ an nay tôi đăng lên đây không biết dòng họ vũ võ nào có tài liệu của dòng họ tôi ko
Võ Như Hoàng Phước :
Như Vũ Phong bên trên có nói, từ thời HBT đã có họ Vũ, rồi bao nhiêu họ Vũ/Võ không phải từ ông cụ Vũ Hồn mà phát sinh ra. Ở đây mình cũng không thấy cây phả hệ đầy đủ từ dòng họ Vũ (Hồn). Như họ Võ Như của mình ở Quảng Nam thì lại phát tích từ ông Võ Như Phô, con ông Võ Như Oanh di cư từ miền bắc (không rõ tỉnh) vào từ năm 1667. Việc tìm hiểu cội nguồn cũng chưa đến điểm mấu chốt. Một số ông/bác trong tộc họ dẫn về tộc Vũ/Võ với cụ tổ Vũ Hồn nhưng không có cây phả hệ để thấy sự gắn kết này. Mong một ngày sẽ có cây phả hệ để mọi con dân họ Vũ/Võ có thể biết dòng máu trong mình từ đâu ra. Trân trọng.
Vũ Phong :
Tôi thấy từ thời Hai Bà TRưng đã có họ Vũ ,Các bác có thể xem sự tích tướng quân Bát Nàn.Nên nói họ Vũ ở ViệtNam xuất phát kỷ 13 -Với Ông tổ là Vũ Hồn ,là không thuyết Phục.
Fortressnbb :
"Julia's Garland" (fr. Guirlande de Julie)
Vũ Thanh Giang :
Dòng họ làm nên bao tuyệt tác thời đương đại với nhiều địa vị xã hội khác nhau sinh ra một anh tú văn khúc tính quân làm nền thời đại quân chủ
Vũ Ngọc Chiến :
Cháu muốn xin file ảnh của thủy Tổ Vũ Hồn bản chuẩn để in. Các bác có hỗ trợ cháu với ạ! (Gmail: vungocchienhd@gmail.com) Cháu cảm ơn nhiều
Vũ Ngọc Trân, Nha Trang :
Đề nghị cho biết số điện thoại của ông Vũ Trọng Hoàng, BLL dong họ Vũ, huyện Tinh Gia, Thanh Hóa. Tôi muốn liên lạc để tìm gốc gác họ Vũ Duy ở t Vĩnh Lại, x Vĩnh Tuy, h Bình Giang, t. Hải dương. Tương truyền dòng họ này xuất phát từ làng Hải Hán , Tĩnh Gia , Thanh Hóa , ra Hai Dương từ nam 1690. Đến khoảng đầu TK20 còn giữ liên lạc với bà còn trong lang Hải Hán. Nay không tìm về quê được do gia phả thất lạc và tên làng Hải Hán đã thay đổi, không xác định được thôn nào xã nào ngày nay. Kinh mong giúp đỡ . Xin trân trọng cảm ơn
VŨ HỒ VŨ :
Xin chào,
Gia đình chúng tôi đã vào Nam từ đời Ông Bà. Hiện không cò thông tin với giồng tộc.
Gia đình chúng tôi thuộc dòng "VŨ ĐÌNH". Rất mong có thể tìm được thông tin và Phả Hệ để có thể Bái Tổ.
Nếu có được thông tin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email : vuhovu2016@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn
võ hoàng Phong (Vũ Phong :
chi họ mình ở xóm đông Thành, xã Vĩnh Thành, yên thành, Nghệ an
mình sống và làm việc tại TP.HCM, ngay trong chi họ mình và cả gia đình mình người thì mang họ Vũ, người mang họ Võ, dù biết đây chỉ là một, tuy nhiên khi dòng họ này di cứ đến đất Nghệ An thì cần thống nhất mang tên họ Võ, ko nên lẫn lộn vì quá phiền phức với các thủ tục hành chính rồi, va sứ mệnh lịch sử đã trao cho vậy rồi thì cứ mang tên họ cho đúng với lịch sử, với vùng miền.
dòng họ mình là dòng họ lớn, có tâm và có tầm, cần phát huy và kết nối
số đt mình 0941886979
Vũ Ngọc Ninh :
sáng nay có ng xưng ban liên lạc dòng họ Vũ mời mua sách của dòng họ . số đt 0862049828 ; họ bảo sách phát hành ở 193 Phan Huy Chú Q Hai Bà Trưng ( đc này ảo ) . giá cũng 400k . ban liên xạc xác nhận lại giúp xem đúng ko nha .
Vũ Minh Tuân :
Sáng nay có người tên xưng tên Vũ Thế Hải SĐT: 0854 458 587, giới thiệu là người trong BLL dòng họ ở 38 Hàng Chuối - Hà nội và bán sách lịch sử dòng họ 400.000 đồng/bộ. Xin BLL xác nhận giúp. Xin cảm ơn
Vũ Văn Sơn :
Tôi xin góp ý với Ban quản trị nên thêm một mục thông tin ban điều hành dòng họ để cho cộng đồng dòng họ còn biết cá nhân nào đang giữ cương vị gì trong ban tổ chức điều hành của dòng họ cho tiện liên hệ. Vào trang thông tin mà mù mờ tìm kiếm thông tin thấy khó quá
trandat :
em có việc cần liên hệ với trưởng thôn Mộ Trạch, admin hay ai có sđt thì làm ơn cho em xin với ạ. Em cám ơn!
vuhao21 :
anh em nao hoc cntt thi vao w3schools hoc nhe!chao than ai
Vũ Thu Trang :
ai cho mik bt thêm về những nét văn hóa liên quan tới đền thờ vũ cố đc ko
Vũ Văn Tuấn :
Cháu thấy mọi thông tin đầy đủ, nhưng những cuốn sách nói về dòng họ VŨ VÕ nên chuyển sang bản điện tử PDF để cho mọi người có thể tải xuống đọc. Nhiều người biết đó là điều tốt, đây là dự án làm sách điện tử rất cần thiết vì nó có sức lan toả nhanh nhất.
Cháu xin chân thành cảm ơn!
Võ Chí Thành :
Con Cháu họ Vũ Võ Việt Nam muốn tìm hiểu và trở về cội nguồn thăm quê cha đất tổ ạ! 0899242688
Vũ Hồng Hải :
Cháu ở Hải Dương, sn 92, muốn tìm hiểu nghiên cứu về đời xưa, cụ tổ của mình
Vũ Võ Chí Dũng :
Hiện mình đang sống tại Qui Nhơn, Bình Định. Cho hỏi số đt hay địa chỉ của trưởng họ Vũ Võ tại Qui Nhơn, Bình Định đc ko ạ ? SĐT: 0963579007. Thanks
Hoàng Hoa :
Thanh phong bạn đã bị lừa đảo
Tiền quyển gia phả chỉ có 100k thôi nhé - chính thống luôn cần liên lạc ban quản lý di tích dòng họ vũ làng mộ Trạch hoặc trưởng thôn
Bùi Mạnh Hùng :
Xin kính hỏi quý vị. Tôi rất băn khoăn ko biết là viết hộ đến chi rồi đến phái đến nhánh hay là họ đến phái đến chi đến nhánh. Mong bậc bề trên chỉ bảo dua. Chân thành cảm ơn
Vũ Xuân Tùng :
Mỗi lần con cháu ở xa về, tìm đến mộ cụ Vũ Vĩnh Thái, Mộ Trạch, Đống Dờm nhưng khó quá, mong ban tổ chức thêm cho chức năng định vị các địa danh này để con cháu thuận tiện hơn khi về thăm đất tổ
Võ Văn Bình :
Thuân Lộc Hồng Lĩnh Hà Tĩnh.
Anh Nguyen :
Co ai o gan cho minh hoi tham bac Vu Thien Huu con khoe khong? Minh la khach hang cua bac Huu cach day nhieu nam roi, nhung con giu tinh cam quy trong.
Võ Thành Quân :
Xin các vị tiền bối Họ tộc Vũ-Võ cho con xin thỉnh giáo. do ông nội mất sớm nên không thể hỏi được ông. hiện nay trong họ tộc có một số chi có danh xưng "Thái Nguyên Quận" nghĩa là gì? xin các vị chỉ bảo và đừng chê trách tiểu bối
Vũ Đắc Dũng :
Xin chào
Vũ Hữu Thọ :
Xin chào dòng họ Vũ - Võ. Tôi xin hỏi nhà thờ họ Vũ - Võ ở Thái Bình địa chỉ như thế nào ạ
vu dinh tuong :
muon tim lai noi coi nguon ma kho qua , em o son la . dc biet ong noi em theo ba cu len day tu lau lam roi . chi biet que o duoi xuoi
Nguyễn Xuân hảo :
Xin kính chào quý vi dòng họ Vũ.
Cháu/anh/em không phải con cháu dòng họ Vũ nhưng hiện tại đang hoàn thành luận án tiến sĩ tại ĐHSP Hà Nội với đề tài "Khảo cứu văn bản Hoa trình thi tập" của cụ Vũ Huy Đĩnh nhưng tư liệu về con người và sự nghiệp của cụ sưu tầm không được nhiều. Vậy các cụ/ông/bà/anh em dòng họ Vũ có xin cho để bổ sung hoàn thiện về cụ Đĩnh. Thông tin: 0974476288
Vũ Nam Hà :
Thân ái chào add trang web và bà con Dòng họ Vũ - Võ.Rất vinh hạnh dòng họ Đinh Vũ của tôi có nguồn gốc từ họ Vũ ở Mộ trạch. Những dòng họ đã đổi tên có được xem cùng nguồn gốc họ Vũ- Võ không ạ.
võ thái hiệp :
Tôi muốn tìm hiểu về quan cửu phẩm họ võ_ vũ cuối cùng của phong kiến ở tuy phước, bình định.
Vũ Hoài Phương :
Tôi có nhận được điện thoại của Ban Liên lạc dòng họ Vũ-Võ VN về việc đề nghị ủng hộ mua sách ghi công danh những người thành đạt và có nói tôi cũng được ghi danh trên quyển sách đó giá 350K, việc làm đó có phải Ban liên lạc đề ra chủ trương hay không? bản thân tôi cũng nghi ngờ việc làm này lắm. Có ai biết xin cho thông tin cụ thể, thành viên ban liên lạc và sđt
vũ đăng hân :
quang khải tứ lộc hải hưng cũ nay đổi thành quang khải tứ kỳ hải dương ai nguồn gốc ở hải dương thì alo nhé
vũ đình mạnh :
mình rất tự hào về dòng họ vũ-võ mình tự nhủ sẽ cố gắng để giúp đỡ nhiều cho dòng họ
Nguyễn Thị Thúy Hà :
quá hay
Nguyễn Cao Minh :
quá hay
võ nguyễn đồng khuyến :
tìm ra cội nguồn thật là hạnh phúc
Vóc Thị Than Thuý :
Mình rất tự hào về dòng họ Võ - Vũ
vũ đức thịnh :
xin chào tất cả mọi nguòi nhé xin hỏi có bạn nào họ vũ làm nghè tái chế hạt nhụako vạy có thì mình giao lưu nhé sdt 0977766847
Vũ Thị Thùy :
Tự hào mang trong mình dòng máu học Vũ-Võ!
Vũ Thị Quỳnh Anh :
Tuy không phải dòng họ đế vương nhưng họ Vũ - Võ đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc cùng nhiều đóng góp cho tiến trình phát triển của đất nước, rất đáng tự hào!
Vũ Đức Quý :
Xin kính chào bà con cô bác, anh chị em dòng họ Vũ Võ ạ! Ngày 10/2 vừa rồi mình có về thăm quần thể nhà thờ và mộ Tổ. Thật đẹp! Trang nghiêm và yên bình! Cảm thấy hãnh diện và đầy tự hào về lịch sử và truyền thống của dòng họ! Thật vinh dự và tự hào là con cháu dòng họ Vũ!
vũ tú nam :
Chào add.mình là người lý nhân hà nam.cũng đã dc nghe về họp họ vũ võ hàng năm tại hải dương rồi nhưng chưa có thời hian để tham gia được.mình rất hi vọng sẽ có cơ hội để tham gia cùng mọi người.rất vui được làm quen với mọi người.
Họ tên :
mình là võ tá vỹ ko biết mình có thuộc dòng họ võ tá ko
Vũ Văn Tùng :
Thanh Xuân- Thanh Hà - Hải Dương.
Mình hiện đang sinh sống và làm việc ở Sài Gòn.
Chào các anh/chị/em ạ!
Vũ Thị Bích Phương :
Chào các cô/các chú/các bác/các anh chị em, em thuộc dòng hộ Vũ Hữu ở Xã Hữu Bằng,Thạch Thất,Hà Nội ạ :)
Vũ Thành Trang :
nguyên quán : Cao Viên - Thanh Oai - Hà Nội
xin cho cháu hỏi muốn liên lạc với cộng đồng dòng họ Vũ Võ TP HCM thì liên lạc với ai và ở đâu ạh , hiện cháu đang sinh sống và làm việc ở Tp HCM
Vũ Thị Thiên :
cháu năm nay 16t, trước đây cháu từng nghe bố bảo họ Vũ nhà cháu gốc ở Hải Dương, nhưng bây giờ mới tìm ra trang web của dòng họ, cháu rất tự hào ạ
TS. Vũ Xuân Trường :
Tôi nghe nói chủ nhật tuần này sẽ tiến hành Đại hội Họ Vũ- Võ Việt Nam. Tôi muốn tham dự có được không
Võ Thành Nam :
xin chào các bạn!
Võ thúy triều :
tự hào dòng máu vũ võ việt nam
Vũ trọng lợi :
Chao tat ca ba con ho vu
Vũ trọng lợi :
Xin chào
Vũ Thị Thanh :
Xin chào mọi người ạ
Vũ Huy Trường :
Xin chào tất cả các anh cô bác anh chị trong dòng họ
Một số suy nghĩ về sỡ hữu đất đai và tôn giáo ở Việt Nam xưa và nay Một số suy nghĩ về sỡ hữu đất đai và tôn giáo ở Việt Nam xưa và nay , Trang thông tin điện tử www.hovuvovietnam.com
Trong bài viết này, tác giả không có tham vọng trình bày cặn kẽ, thấu đáo và toàn diện về vấn đề này, mà chỉ muốn từ những hiểu biết của mình, nêu ra một số suy nghĩ ban đầu từ góc nhìn lịch sử với hy vọng giúp người đọc có thêm cơ sở cho việc nhìn nhận, đánh giá một số sự kiện đang diễn ra.
1 - Một số đặc trưng nổi trội của chế độ ruộng đất trong lịch sử
Gần đây, trước thực tế của hiện tượng "đòi đất", có ý kiến cho rằng Luật Đất đai ở ta đã lạc hậu, cần phải thay đổi. Quả thực luật không phải "nhất thành, bất biến" (hình thành và không biến đổi). Sự ổn định của nó chỉ là tương đối. Khi thực tiễn của lĩnh vực mà luật điều chỉnh phát triển tới mức luật trở thành lực cản, kìm hãm thì chắc chắn luật phải được xem xét để chỉnh sửa, bổ sung, thậm chí thay đổi. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn cần phải được cân nhắc thận trọng, đánh giá một cách toàn diện và phải được tiến hành theo đúng quy trình lập pháp chứ không thể căn cứ vào một số đòi hỏi cụ thể để vội vàng nhận định rằng luật đã "lạc hậu", phải thay đổi.
Cũng có người đem so với luật của nước ngoài, chủ yếu là của các nước Âu - Mỹ để đi tới nhận định luật đã "lạc hậu". Thực tế lịch sử thế giới cho thấy, tiếp thu, học tập lẫn nhau trong lĩnh vực luật pháp là việc thường thấy vì luật pháp là một bộ phận của văn hóa với đặc trưng quan trọng là giao lưu, tiếp biến. Tuy nhiên, điều đó không bao giờ đồng nghĩa với việc tùy tiện nói luật nước này lạc hậu hơn luật nước kia.
Liên quan đến ruộng đất trong lịch sử Việt Nam, có hai nhân tố nổi trội, tác động rất mạnh mẽ và thường xuyên đến chế độ sở hữu là quan hệ cộng đồng và vai trò của Nhà nước. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa Việt Nam với các quốc gia khác. ở châu Âu, chế độ tư hữu ruộng đất hình thành rất sớm và từ thời cổ đại đã hình thành các thiết chế bảo đảm quyền sở hữu tư nhân. Điều này tuyệt nhiên chẳng liên quan gì đến quan niệm cho rằng, châu âu văn minh hơn hay tiến hóa hơn mà đơn giản chỉ là ở đây, sản xuất nông nghiệp ít (hoặc thậm chí là không) cần đến công sức của cộng đồng và cũng không yêu cầu sự hỗ trợ từ nhà nước. Trong khi đó ở Việt Nam, một xứ sở mà mưa lũ, bão lụt diễn ra thường xuyên, hệ thống sông ngòi dày đặc, cư dân lấy trồng lúa nước làm nghề sống chính không thể làm ăn, sinh sống nếu thiếu sức mạnh của cộng đồng và vai trò đắp đê trị thủy của Nhà nước. Điều này giải thích tại sao ở Việt Nam sở hữu công điền tồn tại rất lâu, có thể nói là nhất thế giới. Đó là một đặc trưng nổi trội của chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam, là di tồn của lịch sử được phản ánh đậm nét trong các bộ luật về đất đai từ trước cho đến nay. Điều này đã quy định tính chất không triệt để, không hoàn toàn của sở hữu tư nhân ở Việt Nam. Có lẽ vì thế mà những người phương Tây đến Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, khi so sánh với chế độ ruộng đất ở châu âu, từng đưa ra nhận xét rằng ở đây "không có sở hữu tư nhân". Dù có không thích, có chê bai rằng đó là lạc hậu thì đây vẫn là một thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của ai.
Nhận xét trên đây của những người châu âu còn xuất phát từ hiện tượng có thể là "xa lạ" với họ, nhưng lại rất bình thường đối với người Việt Nam là Nhà nước có quyền lực rất lớn đối với đất đai. ở Việt Nam từng tồn tại rất lâu dài quyền sở hữu tối cao của Nhà nước về ruộng đất. Nhà nước có thể can thiệp vào tất cả các loại hình sở hữu, kể cả sở hữu tư nhân, chẳng hạn như ấn định quy mô sở hữu (hạn điền), tịch thu ruộng bỏ hoang giao cho người khác cày cấy, hoặc trưng dụng ruộng đất vào việc xây dựng các công trình công cộng (đắp đê, làm đường, xây cất cầu cống...). Điều cần làm rõ là quyền lực này không phải chỉ là ý chí chủ quan của chính quyền mà còn có căn nguyên lịch sử, do những tác động của hoàn cảnh khách quan. Chính quyền qua các thời kỳ lịch sử là người tổ chức đắp đê, trị thủy, cứu trợ dân chúng hằng năm mỗi khi bị thiên tai, vì vậy có vai trò rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Có thể ví von một cách hình tượng là nếu như ở phương Tây, mùa màng năm sau tốt hay xấu chỉ phụ thuộc vào độ dày mỏng của tuyết trong mùa đông năm nay, thì ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp phát triển hay đình đốn phần nhiều lại phụ thuộc vào năng lực quản lý của chính quyền. Với ý nghĩa đó, mỗi thửa ruộng, mỗi thước đất đã hàm chứa một phần sở hữu của Nhà nước.
2 - Tác động của hoàn cảnh lịch sử
Hoàn cảnh lịch sử là một một khái niệm có nội hàm rộng, nhưng về đại thể, đó là những tác động lớn, ngoài ý muốn chủ quan. Chẳng riêng gì Việt Nam mà ở bất cứ nơi đâu, chế độ sở hữu ruộng đất luôn gắn rất chặt với hoàn cảnh lịch sử. Khác với nhiều nước trên thế giới, từ ngàn xưa nhân dân Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Có thể nói nước ta là nơi có tần số chiến tranh chống ngoại xâm vào loại nhiều nhất thế giới. Ngoài vai trò tổ chức đắp đê, trị thủy, cứu trợ do thiên tai, chính quyền ở Việt Nam qua các thời còn là người tổ chức các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Quyền sở hữu tối cao của Nhà nước về ruộng đất một phần cũng từ đây mà ra. Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu thế kỷ XV, ngay sau khi đánh thắng quân xâm lược Minh, nhà Lê có thể ban hành Luật Quân điền, theo đó Nhà nước tuyên bố tất cả ruộng đất trong nước thuộc về vua và đưa ra quy định chia ruộng cụ thể cho tất cả các làng xã thực hiện. Quyền sở hữu tối cao này có thay đổi theo thời gian nhưng tồn tại cho đến tận năm 1886 khi thực dân Pháp ép vua Đồng Khánh phải từ bỏ. Trong trường hợp này, tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu tối cao (mà thực chất là trao lại cho chính quyền đô hộ thực dân) của một ông vua bù nhìn đồng nghĩa (và cũng đồng thời) với việc nước ta hoàn toàn mất độc lập, chủ quyền (1).
Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam giành lại độc lập thì việc toàn bộ đất đai thuộc về toàn dân cũng là hợp với lô-gic lịch sử. Theo lô-gic đó, nếu chỉ viện dẫn bằng khoán này nọ do chính quyền thực dân cấp, hoặc đòi hỏi một thứ tư hữu hóa tuyệt đối như ở phương Tây để cho là luật này sai, luật kia đúng là chưa hiểu hết văn hóa và lịch sử Việt Nam.
Trở lại ý kiến cho rằng luật nước ta "lạc hậu"so với luật nước ngoài, cần phải nắm vững đặc tính phản ánh của luật pháp. Đó là lĩnh vực luôn luôn in đậm dấu ấn văn hóa của một cộng đồng dân tộc. Có thể dẫn ra đây một một số thí dụ rất đơn giản và dễ hiểu. Chẳng hạn, những nước trong luật giao thông quy định đi bên phải là đúng (như nước ta chẳng hạn) không thể phê phán những nước có luật quy định đi bên trái mới là thuận chiều (như Nhật Bản, Anh, Thái Lan...). Hay chúng ta có thể thấy theo luật pháp của những nước theo đạo Hồi thì đàn ông được lấy 4 vợ là phản ánh văn hóa của thế giới Hồi giáo, không thể coi là mẫu mực cho các nước khác học tập. Rồi nữa, có thể dẫn ra nhiều điều của bộ luật Hồng Đức (thời Lê) về quyền của phụ nữ rất khác với luật Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... Chuyên gia của những nước này từng rất ngạc nhiên là mặc dù cùng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Khổng giáo, nhưng phụ nữ Việt Nam thời phong kiến lại được luật pháp bảo vệ quyền bình đẳng với nam giới trong chia quyền thừa kế, thậm chí có thể được bỏ chồng nếu người chồng phạm những tội ngược đãi vợ... Cho nên khi xem xét luật luôn phải lưu ý đó là một sản phẩm của văn hóa, phản ánh đời sống của một cộng đồng dân tộc, khó có thể lấy luật nước nào làm chuẩn mực.
3 - Quan hệ giữa tôn giáo và chính quyền trong lịch sử Việt Nam
Từ xa xưa, quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo luôn là vấn đề hệ trọng. Các nhà sử học thường gọi hai thực thể này dưới thời phong kiến là vương quyền và thần quyền. ở châu âu trung cổ, thần quyền thường có vị trí cao hơn vương quyền. Những lễ nghi quan trọng (kể cả lễ đăng quang) thường tổ chức ở nhà thờ. Tại đây người có giáo phẩm cao thường làm nghi lễ đội vương miện lên đầu ông vua mới lên ngôi hàm ý nhà thờ có quyền trao cho ông ta quyền cai trị thế tục. ở Nam Âu, có tục Thần - Vua đồng nhất (Deva - raji), theo đó vị quân vương chính là một vị thần. Còn ở Việt Nam, theo hiểu biết của tôi, chưa bao giờ có tôn giáo nào đứng trên vương quyền. Chẳng hạn, người ta thường nói vào thời Lý, Phật giáo là Quốc giáo với người đứng đầu Quốc sư, nhưng theo sử sách, chức đó là do vua ban và vị trí trang trọng nhất mà vị Quốc sư đó lấy làm vinh hạnh là được đứng ngang với Thế tử (người con được chọn sẽ kế vị ngai vua) trong các buổi thiết triều.
Điều quan trọng là qua các thời kỳ lịch sử, các tôn giáo đã tìm được chỗ đứng trong lòng dân tộc, gắn bó với số phận của dân tộc và có quan hệ tốt với chính quyền. Phật giáo là tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và có những bước thăng trầm trong quá trình phát triển. Trong thời kỳ thịnh đạt, Phật giáo cũng có rất nhiều đất đai, nhưng phần lớn trong số đó cũng là do Nhà nước cấp. Thậm chí, có lúc triều đình (dưới thời Trần chẳng hạn) còn đặt ra một ngạch quan chức để giúp nhà chúa quản lý đất đai.
Thiên chúa giáo vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVII và cũng đã từng co những giai đoạn khó khăn, nhưng khi thích ứng với văn hóa dân tộc, tôn trọng các giá trị truyền thống thì đã có được vị trí trong đời sống tâm linh của một bộ phận dân tộc. Đồng bào theo Công giáo Việt Nam vừa thờ Chúa vừa hương nhang thờ cúng Tổ tiên là hiện tượng độc đáo hiếm có đối với đạo Thiên chúa, vừa phản ánh tính cách người Việt, vừa nói lên thái độ mềm dẻo của Công giáo.
Người Việt Nam dù theo bất kỳ tôn giáo nào thì phẩm chất đạo đức hàng đầu vẫn phải là yêu nước, phụng sự dân tộc và tôn kính Tổ tiên.
Lịch sử Việt Nam cũng chỉ ra rằng, bất kỳ tôn giáo nào nếu hòa đồng với dân tộc, có quan hệ tốt với chính quyền, hướng tới sự phát triển khối đoàn kết toàn dân, tham gia bình ổn xã hội nhằm đưa đất nước đi lên thì luôn được trân trọng. Trái lại, nếu chỉ đặt lợi ích riêng của tôn giáo lên trên tất cả thì khó lòng tìm được sự ủng hộ của nhân dân. Đây không phải chỉ là vấn đề ứng xử mà cao hơn thế cũng là vấn đề đạo lý. Nói tới khía cạnh đạo lý, tôi muốn nhấn mạnh điều mà nếu là người Việt Nam ai cũng có thể đồng tình, đó là "uống nước nhớ nguồn", phải biết cái mình đang có ở đâu mà ra để cư xử cho đúng mực.
Có thể nêu ra đây một thí dụ. Nhà thờ lớn ở Hà Nội hoành tráng hiện tọa lạc trên một khu đất đẹp đẽ cao ráo ở trung tâm thành phố. Có điều mà không phải ai cũng biết là đất xây nhà thờ ấy ở đâu mà ra, tiền xây dựng nhà thờ ấy lấy từ nguồn nào? Quả thực, nếu không có tư liệu lưu trữ và lời tự thuật của những người trực tiếp xử lý công việc này thì cũng khó có ai biết được. Năm 1923 Tạp chí Đông Dương có đăng bài viết của nguyên Công sứ Pháp tại Hà Nội R. Bông-nan với nhan đề "Ghi chép và hồi ký ở Bắc kỳ (1873 - 1888)(2)" đã cho chúng ta biết khá tường tận về vấn đề này. R. Bông-nan kể lại rằng, sau khi quân Pháp chiếm được thành Hà Nội vào năm 1882, vị Giám mục Hội Truyền giáo Pháp Puy-gi-ni-ê đã đề xuất với ông ta ý muốn xây dựng một nhà thờ khang trang và khu đất mà ông ta nhắm vào lại đúng vị trí của chùa Báo Thiên - một ngôi chùa cổ mà chính người Pháp cũng phải thừa nhận là "được sùng kính nhất thành phố" (3). Biết rằng việc phá chùa lấy đất xây nhà thờ là không đơn giản, nhưng để chiều lòng vị cha cố, viên Công sứ Pháp đó dàn dựng một kế hoạch hết sức tinh vi. Ông ta đã khôn khéo "chuyển trường hợp này cho tổng đốc Nguyễn Hữu Độ" (người do Pháp dựng lên sau khi tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết và thành Hà Nội thất thủ) vì "ông ta (Nguyễn Hữu Độ) có quan hệ tốt với Đức Cha và cũng muốn làm vui lòng Đức Cha như tôi (Bông-nan)". Ông tổng đốc này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được vị Công sứ giao cho. Đây là lời kể của Bông-nan về thủ thuật của Nguyễn Hữu Độ: "ông ta chọn một số kỳ lão trong số dân bản địa theo Công giáo ở khu phố và ra lệnh họ kiểm tra sự vững chắc của ngôi chùa. Những người này không do dự tuyên bố ngôi chùa trong khi đổ nát có thể gây ra tai nạn cho người qua lại. Thế là đâu vào đấy..." Với lý do đó, Nguyễn Hữu Độ đã ra lệnh phá chùa Báo Thiên để rồi biếu không cho Hội Truyền giáo miếng đất thu hồi được. Cần lưu ý rằng sự kiện trên đây xảy ra vào năm 1883, khi quân Pháp vừa kết thúc việc đánh chiếm Bắc kỳ lần 2 và Hà Nội vẫn chưa tan khói súng. Từ đó chùa Báo Thiên, ngôi chùa được sùng kính, từng là niềm tự hào của người Việt đã vĩnh viễn mất đi.
Dẫn lại tư liệu do chính vị Công sứ Pháp kể để thấy nhân dân Việt Nam, chính quyền cách mạng đã nhân ái, vị tha biết chừng nào.
Còn tiền xây nhà thờ lấy đâu ra thì nhà lưu trữ học người Pháp An-đrê Ma-xông đã tra cứu các tàng thư cho biết, kinh phí xây dựng nhà thờ nguy nga đó là tiền lấy từ dân chúng qua con đường bán xổ số của chính quyền thực dân. Lần thứ nhất phát hành ngày 28-1-1884 theo lệnh của đô đốc Cuốc-bê. Do không đủ, đến 14-8-1886 toàn quyền Pôn Béx lại ra quyết định phát hành xổ số lần thứ 2 cho nhà thờ. Và công trình đó hoàn thành vào ngay năm sau (1887).
Câu chuyện trên đây cốt để chúng ta nhớ lại lịch sử, để thấy việc đặt vấn đề "đòi đất, đòi quyền sở hữu" cũng cần có sự suy nghĩ sâu xa, cần thấy cả khía cạnh đạo lý - điều mà mọi người có lương tri, không kể có theo tôn giáo hay không đều tôn trọng.
Từ những điều trình bày trên đây tôi thấy cần phải có đôi lời về cách đặt vấn đề và xử sự việc đòi đất của giáo xứ Thái Hà ở 178 Nguyễn Lương Bằng và của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội ở 42 Nhà Chung (Hà Nội).
Trước hết phải nói ngay rằng cá nhân tôi rất kính trọng kiến thức uyên bác, hiểu biết sâu rộng của các vị linh mục. Chính vì vậy mà tôi không hiểu nổi vì sao người có giáo phẩm cao như ông Ngô Quang Kiệt lại hành xử như vậy.
Trước khi kêu gọi giáo dân tham gia vào những sự kiện được gọi là "đòi đất" như vừa qua thì ít ra cũng phải ngẫm nghĩ thấu đáo ba điều:
Thứ nhất và quan trọng nhất là hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành. Pháp luật không phải là chính quyền mà là ý nguyện của dân. Tôn trọng pháp luật là tôn trọng ý nguyện của nhân dân. Hành xử theo đúng pháp luật là biểu hiện của trình độ văn hóa. Đó cũng là cách ứng xử của người dân các nước văn minh.
Thứ hai, xa hơn một chút, khi đặt vấn đề "đòi đất" cần xem xét kỹ tính chính đáng của việc thụ đắc khu đất đó, phải thấu hiểu nó ở đâu mà ra, cái "quyền" mình có do ai đem lại. Nghĩa là phải tìm hiểu lịch sử.
Thứ ba, điều sâu xa mà cho dù là ai, là tổ chức nào cũng cần phải hiểu là mỗi tấc đất trên lãnh thổ Việt Nam và Thủ đô Hà Nội đều thấm đẫm máu, xương của bao thế hệ đã ngã xuống để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Hiện nay, toàn bộ đất đai đều thuộc sở hữu toàn dân là thành quả của bao nhiêu năm đấu tranh hy sinh, gian khổ của cả dân tộc mới có được.
Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây đã có những chính sách cởi mở và tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo. Tôi được biết, khi tòa giám mục có nhu cầu, chính quyền Hà Nội đã rất thiện chí giới thiệu và sẵn sàng dành cho những khu đất đẹp với diện tích không nhỏ để mở rộng địa bàn xây cất các cơ sở tôn giáo, nhưng ông Ngô Quang Kiệt và một số linh mục lại không nhận mà chỉ đòi "trả lại đất". Như vậy, người ta có thể đặt câu hỏi phải chăng mục đích của sự kiện vừa qua đâu phải là vì sự phát triển của tôn giáo?
Tôi cho rằng cách đặt vấn đề "đòi lại đất" xét từ góc độ pháp lý, lịch sử và cả đạo lý đều không phù hợp. Với ý nghĩa đó, việc chính quyền Thủ đô quyết định xây dựng trên các khu đất này những công viên cây xanh, khu vui chơi giải trí phục vụ nhân dân là việc làm đúng đắn, có ý nghĩa về nhiều mặt. Tôi tin rằng, tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân đồng tình với cách giải quyết đó./.
- (1) Xem thêm Vũ Minh Giang: “Sự tiến triển của chế độ sở hữu ruộng đất trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí khoa học, 3-1988
- (2) R. Bông-nan: Au Tonkin - Notes et souvenirs (1873 - 1886), Revue Indochinoise
- (3) An-đrê Ma-xông: Hanoi pendant la périod héroique 1873 - 1888, Paris 1929