Nhìn lại trí thức thời xưa
Trí thức Việt Nam dù ngày xưa hay hiện nay đều chung một dòng chảy, qua mọi thời kỳ lịch sử của dân tộc. Thời kỳ khác nhau có thể đem lại sự khác nhau giữa các thế hệ trí thức Việt Nam, về hoàn cảnh xã hội, về nhiệm vụ lịch sử, về cách thức tư duy và hành động...
Ngoài những dị biệt nói trên, lịch sử còn ghi lại những nét tương đồng giữa các thế hệ trí thức Việt Nam, thể hiện phẩm chất bất diệt của họ từ xưa đến nay. Ðó là: Sự gắn bó bằng máu thịt của trí thức Việt Nam với dân tộc của họ. Họ cùng với dân tộc nổi chìm trong dòng lịch sử: hưng thịnh hay suy vong, vinh quang hay tủi nhục, thất bại hay thành công.
Tính liên tục của phẩm chất và đạo đức, tư duy và hành động ở trí thức Việt Nam khiến chúng ta có thể nghĩ rằng, trí thức thời nay đang tiếp tục sự nghiệp của trí thức thời xưa và trí thức thời xưa vẫn còn gửi lại người trí thời nay những hoài bão chưa thực hiện được và những lo lắng khôn nguôi về vận mệnh của đồng bào và Tổ quốc.
Cao Bá Quát ngày xưa chia trí thức thành ba loại:
- Loại người có chí lớn như chim hồng hộc bay tít trên mây xanh.
- Loại người thanh cao ở ẩn như chim hạc đen ngủ một mình bên sườn núi.
- Còn đáng khinh là loại người như những con hoàng điểu chỉ tìm chỗ kiếm ăn ở những nhà quyền quý.
Và ông đã kết luận rằng: Mình sẽ không bao giờ là những con chim hoàng điểu ấy.
Khi Thân Nhân Trung viết bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu để nói về ý nghĩa của khoa thi Hội năm 1442, ông đã lần đầu tiên nêu lên quan điểm chính thống của Việt Nam đối với trí thức: "Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống thấp".
Ðặt người trí thức ở một vị trí cao như thế, Thân Nhân Trung cũng đòi hỏi rất cao về tài năng và phẩm chất của họ. Ông giải thích vì sao phải dựng bia đá để khắc tên của người thi đỗ và đặt ở Quốc Tử Giám? Ðó là nhằm cổ vũ mọi kẻ sĩ hãy trở thành hiền tài và thường xuyên rèn luyện danh tiết để hết lòng phục vụ Tổ quốc. Có như thế họ mới xứng đáng với lòng hâm mộ của nhân dân và sự tin cậy của nhà nước. Văn bia còn lên án những kẻ sĩ được trọng dụng nhưng rồi vì hối lộ mà hư hỏng và sa ngã. Ðó là những bọn gian ác không thể đứng trong hàng ngũ của những hiền tài.
Thực ra trong ba loại trí thức, chỉ có hai loại trên đáng gọi là trí thức. Bởi vì không thể gọi là trí thức những kẻ chỉ lo lắng cho bản thân mình và chỉ băn khoăn trước sự mất còn nhỏ nhặt của cuộc sống riêng tư. Không thể gọi là trí thức những kẻ không ra khỏi vỏ ốc của bản thân mình, không thấy được lẽ sống của nhân loại, không xác định được trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ quốc và của nhân dân.
Cao Bá Quát khẳng định thái độ rõ rệt của mình trong bài thơ dài gửi cho người bạn là Nguyễn Trúc Khê khi ông này lên đường nhận chức Tri phủ Thường Tín. Ông nhắc bạn mình hãy chọn lấy một trong hai con đường: Bảo vệ dân hay bòn rút của dân? Làm chim diều, chim cắt hay làm chim loan, chim phượng? Ông nhắc bạn ông rằng phủ Thường Tín là nơi quê hương của Chu Văn An và Nguyễn Trãi. Ðó là hai nhà trí thức tiêu biểu nhất cho trí thức Việt Nam. Ông nhờ Trúc Khê hãy vì ông mà đến lạy trước bàn thờ của hai vị danh nhân đó và hãy sống theo tấm gương tuyệt vời của hai ông và đừng bao giờ như những bọn quan lại đang sống một cách nhục nhã, chỉ biết vơ vét và áp bức nhân dân.
Sự phân biệt giữa trí thức chân chính với những người không đáng gọi là trí thức còn là cách nhìn nhận phổ biến trong dân gian. Nhân dân Việt Nam coi những bọn trí thức tham nhũng là bọn giặc cướp "cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".
Người trí thức được mọi người quý trọng trước hết là những người tham gia bảo vệ Tổ quốc, chăm lo hạnh phúc của nhân dân. Sau là những người không có điều kiện thi thố tài năng thì lui về ở nhà đọc sách, dạy học hoặc làm thuốc cứu dân.
Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm khi có điều kiện thuận lợi thì hiến dâng tuổi trẻ, trí tuệ, tài năng và cả cuộc đời cho đất nước. Khi gặp trở ngại từ phía nhà nước hoặc trước những khó khăn thực tế không thể vượt qua thì các ông đành lui về: Nguyễn Trãi về Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm về Vĩnh Bảo, Ngô Thì Nhậm về chùa để nghiên cứu kinh phật. Nhưng ở các ông, tấm lòng ưu dân, ái quốc không bao giờ nguôi ở trong lòng. Nói như Nguyễn Trãi là:
Bui một tấm lòng ưu ái cũ
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
Nói chung, những người trí thức chân chính dù ở hay về, tiến hay thoái đều xuất phát từ tấm lòng suốt đời vì nước, vì dân.
Nghĩ về trí thức ngày nay
Trí thức thời nay tiếp tục truyền thống của ông cha trong một hoàn cảnh đã biến đổi sâu sắc. Từ hơn 60 năm trước, Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ sự thống trị 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hơn 1000 năm của chủ nghĩa phong kiến Việt Nam. Vận mệnh của Tổ quốc, đời sống của nhân dân không còn tùy thuộc vào nhà nước của giai cấp bóc lột. Mọi quyền lực về kinh tế, chính trị, xã hội được trả lại cho nhân dân, trong đó có tầng lớp trí thức. Ðiều này đánh dấu một bước ngoặt lớn nhất trong lịch sử phát triển của trí thức Việt Nam.
Lịch sử ghi nhận sự đóng góp to lớn của giới trí thức trong Cách mạng Tháng Tám. Tinh thần trí thức ngày một cao trong các ngành giáo dục, khoa học, y tế và đặc biệt qua hai cuộc kháng chiến. Theo tiếng gọi non sông và dưới ảnh hưởng của Bác Hồ, đông đảo trí thức Việt kiều về nước hoạt động và cùng với trí thức trong nước góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Ý thức được vai trò làm chủ đất nước, trí thức Việt Nam ngày một xác định trách nhiệm thiêng liêng và khả năng đặc biệt của mình. Họ đang cùng toàn thể nhân dân đứng trước những thử thách mang ý nghĩa tồn vong của cả dân tộc.
Trí thức thời xưa trong những phút hiểm nghèo nhất cũng không lường được những khó khăn mà trí thức ngày nay đang phải gánh trên vai.
Toàn cầu hóa đang lôi cuốn mọi quốc gia và dân tộc trên hành tinh này vào một cuộc chạy đua có ý nghĩa quyết định đối với số phận của mình: Tiến bộ hay lạc hậu, thất bại hay thành công, hạnh phúc hay bất hạnh.
Trước đây là cuộc đấu tranh để đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Ngày nay là cuộc chiến đấu nhằm rút ngắn khoảng cách giữa giàu và nghèo, mạnh và yếu, tiến bộ và suy thoái giữa ta và nhiều nước trên phạm vi thế giới. Ngày xưa là sự đe dọa của nỗi nhục mất nước thì ngày nay là sự thách thức của nỗi nhục yếu kém.
Nếu như ngày xưa trong hoàn cảnh lịch sử của mình, trí thức Việt Nam đã trải trăm ngàn nỗi gian truân vất vả, ngày quên ăn, đêm quên ngủ để tìm đường cứu nước thì trí thức ngày nay cũng đang day dứt khôn nguôi về những nguy cơ đang đè nặng lên Tổ quốc.
Trong thời đại ngày nay, một sức mạnh chưa từng có trong lịch sử đã được đặt trong tay của cả nhân loại. Trí tuệ của con người đã phát triển đột biến và tạo ra sự thay đổi hằng tháng, hằng năm, hằng ngày trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự thành công của mỗi quốc gia, dân tộc không còn phụ thuộc bao nhiêu vào sự phong phú của thiên nhiên mà lại phụ thuộc vào trình độ trí tuệ của nhân dân, đặc biệt là của giới lãnh đạo, giới kinh doanh và người trí thức.
Làm thế nào để trong cuộc đua tranh quyết liệt này, trí thức Việt Nam có thể nhanh chóng vươn lên đỉnh cao của trí tuệ, đề ra được những kiến giải mầu nhiệm nhất cho mọi vấn đề lớn nhỏ, thực hiện được những hoài bão chung của cả dân tộc trên con đường tiến lên của đất nước?
Ngày nay, đất nước ta đã hội nhập toàn cầu về mặt kinh tế và chấp nhận cuộc chạy đua về mọi mặt giữa các dân tộc trên thế giới. Gia nhập WTO, chúng ta càng đi thẳng vào một trận địa mới đầy rẫy khó khăn. Ðó là khó khăn của những con thuyền từ dòng sông nhỏ đi ra biển cả, đương đầu với muôn trùng sóng gió.
Cuộc chạy đua trên toàn thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay không chỉ có thuận lợi mà còn đang diễn ra trong một tình trạng bất bình đẳng phổ biến và sâu sắc. Sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, mạnh và yếu, tiến bộ và lạc hậu đang ngày càng sâu sắc giữa các dân tộc và giữa các tầng lớp xã hội trong một quốc gia.
Hội nhập kinh tế là một thời cơ để các nước có điều kiện thâm nhập vào nhau, cùng bổ sung cho nhau để cùng phát triển. Tuy nhiên điều này lại diễn ra trong sự đối lập từ hai phía: Giữa những nước thừa thãi về mọi mặt và những nước thiếu thốn ở cả những nhu cầu tối thiểu. Làm gì có sự công bằng giữa các nước lớn và nhỏ về những điều kiện tối thiểu để kinh doanh: Về tiền vốn, về kỹ thuật, về kinh nghiệm quản lý thị trường, về nguyên liệu và hàng hóa...
Toàn cầu hóa, sản phẩm của sự phát triển kinh tế, trước hết là của sự phát triển về khoa học, công nghệ, trình độ, trí tuệ của từng dân tộc mà trước hết là trình độ của giới trí thức. Cuộc đua trên lĩnh vực trí tuệ này càng là một cuộc đua bất bình đẳng giữa các dân tộc: Một bên có đầy đủ những phương tiện hiện đại nhất để nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, để luôn luôn có những phát minh kỳ diệu trước sự kinh ngạc của cả loài người. Còn bên kia là những nước có mức sống thấp nhất, không đủ cả cơm ăn, áo mặc, không đủ sức chống đỡ với thiên tai và bệnh tật, chưa kể đến những thành kiến, chia rẽ, phân biệt tôn giáo và sắc tộc đang tạo ra nhiều cuộc xung đột đẫm máu...
Cũng như trí thức thời xưa, đại bộ phận trí thức thời nay cũng ngày đêm suy nghĩ làm thế nào để dân tộc Việt Nam phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất, vượt mọi khó khăn, đạt được những thắng lợi vẻ vang trong cuộc chạy đua có tính chất toàn cầu này?
Tôi nghĩ tới hàng triệu và hàng triệu trí thức Việt Nam cả già và trẻ, cả trong nước và ngoài nước đang ngày đêm vừa học tập, vừa suy nghĩ, vừa phát minh, vừa tìm cách đóng góp nhằm tạo ra một sức mạnh kỳ diệu cho dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay. Họ đang đứng trước sự trông chờ của toàn thể nhân dân trong cả nước và sự thách thức của cả thế giới đối với Việt Nam.
Những tâm tư, hoài bão của bao nhiêu thế hệ trí thức Việt Nam từ xưa tới nay lại trở về trong lòng họ càng sâu sắc hơn và nồng nhiệt hơn nữa.
Nếu như Nguyễn Du chờ đợi ở con người 300 năm sau, một giọt nước mắt khóc cho ông, khóc cho tâm trạng của trí thức thời xưa, thì trí thức thời nay không cần đáp lại bằng nước mắt mà bằng cả tâm huyết, trí tuệ, tài năng để đem lại phồn vinh và hạnh phúc cho nhân dân, trả lại vinh dự vẻ vang từ ngàn đời cho Tổ quốc Việt Nam anh hùng và văn hiến.